CHUYÊN ĐỀ
NHỮNG ĐIỂM MỚI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
TRONG CHƯƠNG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU VÀ CHƯƠNG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
TS. Nguyễn Sơn. Nguyên Phó Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao
I. NHỮNG ĐIỂM MỚI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG CHƯƠNG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
1. Những điểm mới sửa đổi, bổ sung cơ bản của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm sở hữu
Các tội xâm phạm sở hữu thuộc Chương XVI của BLHS năm 2015, gồm có 13 điều (
từ Điều 168 đến Điều 180). So với BLHS năm 1999, Chương XVI của BLHS năm 2015 không tăng, giảm số điều luật nhưng có nhiều điểm được sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
Thứ nhất, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và yêu cầu thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng đối với nhiệm vụ cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, và thể chế hóa được những quan điểm mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế hóa trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2002, cụ thể là các chủ trương về hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và xây dựng công cụ sắc bén đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, như: cụ thể hóa các dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định trong BLHS 1999 theo hướng quy định cụ thể mức thiệt hại về sức khỏe, mức độ ảnh hưởng tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc mức trị giá tài sản bị xâm hại; bổ sung thêm đối tượng tài sản bị xâm hại là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là di vật, cổ vật có giá trị dưới mức định lượng thì vẫn bị xử lý hình sự; bổ sung tình tiết định khung tăng nặng đối với một số tội danh; quy định cụ thể tội phạm đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội ở một số tội danh.
Ngoài ra, Chương này còn sửa đổi, bổ sung cấu thành tội phạm của một số tội để phù hợp với tình hình mới như tội sử dụng trái phép tài sản; tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Đồng thời, điều chỉnh mức hình phạt cho phù hợp với tính chất tội phạm và tình hình thực tiễn đấu tranh phòng, chống một số tội phạm.
2. Những điểm mới sửa đổi, bổ sung cụ thể trong các điều luật
Điều 168. Tội cướp tài sản
- Về cấu thành tội phạm
Điều luật đã thay cụm từ “thương tật” bằng cụm từ
“tổn thương cơ thể”; cụ thể hóa tình tiết định khung “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng các tình tiết
“Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ”, “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; bỏ các tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” ở khoản 3, khoản 4 của điều luật; bổ sung các tình tiết định khung tăng nặng mới là
“Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” ở khoản 3,
“gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên”, “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” ở khoản 4; Bổ sung trường hợp chuẩn bị phạm tội ở khoản 5 là
“Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
- Về hình phạt: Điều luật giữ nguyên hình phạt chính ở các khoản 1, 2, 3 và hình phạt bổ sung ở khoản 6; bỏ hình phạt tử hình ở khoản 4.
Về việc bỏ hình phạt tử hình đối với tội cướp tài sản, trong quá trình xây dựng dự án BLHS (sửa đổi), có quan điểm cho rằng, tội cướp tài sản là một trong ba tội phạm nghiêm trọng nhất của Chương các tội phạm xâm phạm sở hữu. Do đó, đề nghị giữ nguyên hình phạt tử hình đối với tội này. Tuy nhiên, việc bỏ hình phạt tử hình đối với tội danh này được đề xuất trên cơ sở xem xét về bản chất của tội phạm.
Theo dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm thì hành vi cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực hoặc bằng các hành động khác tấn công nạn nhân làm cho nạn nhân không thể chống cự được để chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, khi thực hiện tội phạm, người phạm tội có thể gây ra các hậu quả khác như thiệt hại tính mạng, sức khỏe cho nạn nhân. Tuy nhiên, xét về bản chất của tội phạm thì đây là tội xâm phạm quyền sở hữu của người khác, đối tượng chính bị xâm hại ở đây là tài sản. Mục đích thực hiện hành vi của người phạm tội là chiếm đoạt tài sản. Do đó, việc gây thương tích hoặc làm chết người khi thực hiện hành vi cướp không nằm trong ý định chủ quan của người phạm tội. Hơn nữa, không phải mọi trường hợp phạm tội cướp tài sản đều gây chết người, do vậy, việc áp dụng hình phạt tù chung thân đối với tội phạm này là đủ nghiêm khắc. Trong trường hợp người phạm tội có ý định tước đoạt sinh mạng của nạn nhân thì có thể xử lý về tội giết người với khung hình phạt cao nhất là tử hình. Do đó, BLHS năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình áp dụng đối với tội này.
Điều 169. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
- Điều luật đã thay cụm từ “thương tật”, “sử dụng vũ khí” bằng cụm từ
“tổn thương cơ thể” “dùng vũ khí” cho chính xác, phù hợp với thực tiễn và các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành; cụ thể hóa các tình tiết định khung tăng nặng :
+ Các tình tiết “Đối với trẻ em”, “Đối với nhiều người” bằng các tình tiết
“Đối với người dưới 16 tuổi”, “Đối với 02 người trở lên”;
+ Tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” ở khoản 2;
+ Bỏ tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” ở khoản 3;
- Bổ sung tình tiết
“Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe
hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên
” ở khoản 4.
- Bổ sung khoản 5 quy định xử lý đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, theo đó,
“Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản
Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” và bổ sung tình tiết định khung tăng nặng
“Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ” ở khoản 2; cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” ở khoản 3; tình tiết “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” ở khoản 4.
Điều 171. Tội cướp giật tài sản
Điều luật đã thay cụm từ “thương tật” bằng cụm từ
“tổn thương cơ thể” cho chính xác, phù hợp với thực tiễn và các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành; cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” và bổ sung tình tiết định khung tăng nặng
“Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ” ở khoản 2; cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” ở khoản 3; cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” và bổ sung tình tiết “G
ây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên” ở khoản 4.
Điều 172. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
- Về cấu thành tội phạm
Điều luật đã cụ thể hóa và làm rõ các tình tiết định tội “gây hậu quả nghiêm trọng” ở khoản 1 Điều 137 của BLHS năm 1999 bằng “
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, cụ thể hóa tình tiết “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” bằng “Đã bị kết án
về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này” và bổ sung trong cấu thành cơ bản đối tượng
tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” mặc dù có giá trị dưới 2.000.000 đồng vẫn có thể bị xử lý hình sự theo khoản 1 nếu đáp ứng các điều kiện khác trong cấu thành tội phạm.
- Cụ thể hóa các tình tiết định khung tăng nặng:
+ Tại khoản 2: Cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” bằng tình tiết “
Chiếm đoạt tài sản là hàng cứu trợ”;
+ Tại khoản 3: Cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”;
+ Tại khoản 4: Cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”.
- Về hình phạt: Điều luật đã bổ sung hình phạt “
cải tạo không giam giữ đến 03 năm” ở khoản 1; bỏ hình phạt
“tù chung thân” ở khoản 4; tăng mức hình phạt tiền bổ sung lên
10.000.000 đồng (theo Điều 137 của BLHS năm 1999 là 5.000.000 đồng).
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản
- Về cấu thành tội phạm
Điều luật đã cụ thể hóa và làm rõ các tình tiết định tội “gây hậu quả nghiêm trọng” ở khoản 1 của Điều 138 BLHS năm 1999 bằng “
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, cụ thể hóa tình tiết “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” bằng “Đã bị kết án
về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
” và bổ sung trong cấu thành cơ bản đối tượng
tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là di vật, cổ vật mặc dù có giá trị dưới 2.000.000 đồng vẫn có thể bị xử lý hình sự theo khoản 1 nếu đáp ứng các điều kiện khác trong cấu thành tội phạm.
- Cụ thể hóa các tình tiết định khung tăng nặng:
+ Tại khoản 2: Cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” bằng tình tiết “
Tài sản là bảo vật quốc gia”.
+ Tại khoản 3: Cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” bằng “
Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”;
+ Tại khoản 4: Cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng tình tiết “
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”.
- Về hình phạt: Điều luật đã
bỏ hình phạt tù chung thân ở khoản 4.
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Khoản 1 Điều luật đã cụ thể hóa và làm rõ các tình tiết định tội “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng “
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, cụ thể hóa tình tiết “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” bằng “Đã bị kết án
về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này” và bổ sung trong cấu thành cơ bản đối tượng
tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ mặc dù có giá trị dưới 2.000.000 đồng vẫn có thể bị xử lý hình sự theo khoản 1 nếu đáp ứng các điều kiện khác trong cấu thành tội phạm.
- Điều luật đã cụ thể hóa các tình tiết định khung tăng nặng:
+ Bỏ tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” ở khoản 2;
+ “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” ở khoản 3;
+ “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng tình tiết
“Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” ở khoản 4.
Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Về cấu thành tội phạm:
+ Khoản 1 Điều luật đã thay từ “có” bằng cụm từ
“thực hiện”; bỏ “gây hậu quả nghiêm trọng”, cụ thể hóa tình tiết “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” bằng “đã bị kết án về
tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này” và bổ sung trong cấu thành cơ bản đối tượng
tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ mặc dù có giá trị dưới 4.000.000 đồng vẫn có thể bị xử lý hình sự theo khoản 1 nếu đáp ứng các điều kiện khác trong cấu thành tội phạm.
+ Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, điểm a khoản 1 Điều luật đã bổ sung tình tiết “
hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”. Như vậy, đối với các trường hợp thực hiện hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác và đến thời hạn phải trả lại tài sản, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng chây ỳ cố tình không trả thì là chiếm đoạt tài sản và đối tượng có thể bị xử lý hình sự ngay mà không cần phải chứng minh tình tiết “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” như quy định của BLHS năm 1999.
+ Điều luật đã bỏ các tình tiết định khung “Gây hậu quả nghiêm trọng”, “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” ở các khoản 2, 4 Điều 140 của BLHS năm 1999; bổ sung tình tiết định khung “
Có tính chất chuyên nghiệp” ở khoản 2, đồng thời, cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” bằng tình tiết “
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
- Về hình phạt: Điều luật đã nâng mức tối thiểu của hình phạt tù ở khoản 1 lên thành 06 tháng (hiện hành là 03 tháng); giảm mức tối thiếu và tối đa của hình phạt tù ở khoản 2 còn là “
05 năm đến 12 năm” (hiện hành 07 năm đến 15 năm) ở khoản 3; bỏ hình phạt tù chung thân ở khoản 4.
Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản
- Về cấu thành tội phạm
Để phù hợp với thực tiễn áp dụng và bảo đảm tính thống nhất với Luật di sản văn hóa, Điều luật đã bổ sung đối tượng bị chiếm giữ trái phép là “di vật” ở khoản 1 và cụ thể hóa tình tiết “cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hóa có giá trị đặc biệt” bằng tình tiết
“bảo vật quốc gia” ở khoản 2.
- Về hình phạt: Điều luật đã bổ sung hình phạt tiền “
từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, giảm mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ xuống còn
02 năm (hiện hành là 03 năm.
Điều 177. Tội sử dụng trái phép tài sản
- Về cấu thành tội phạm
Điều luật đã điều chỉnh nâng mức tối thiểu giá trị tài sản bị sử dụng trái phép để xử lý hình sự lên thành
“100.000.000 đồng” (theo Điều 142 BLHS năm 1999 là 50.000.000 đồng) và bổ sung tình tiết “đã bị
xử lý kỷ luật hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 219 và Điều 220 của Bộ luật này” ở khoản 1.
- Cụ thể hóa các tình tiết định khung tăng nặng:
+ Tại khoản 2: Cụ thể hóa tình tiết “Phạm tội nhiều lần”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” bằng các tình tiết
“Phạm tội 02 lần trở lên”, “
Tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng” và bổ sung tình tiết
“Tài sản là bảo vật quốc gia”;
+ Tại khoản 3: Cụ thể hóa trường hợp “Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng trường hợp
“Phạm tội sử dụng trái phép tài sản trị giá 1.500.000.000 đồng trở lên”.
- Về hình phạt: Điều luật đã nâng mức tối thiểu của hình phạt tiền ở khoản 1 lên 10.000.000 đồng (theo Điều 142 BLHS năm 1999 là 5.000.000 đồng); khoản 2 Điều luật đã bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính với mức phạt
từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng và giảm mức tối thiểu của hình phạt tù xuống còn 01 năm (theo Điều 142 BLHS năm 1999 là 02 năm).
Điều 178. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
- Về cấu thành tội phạm
Khoản 1 Điều luật đã phân hóa loại tài sản để có sự phân hóa chính sách xử lý hình sự phù hợp đối với người hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.”
Khoản 2 Điều luật đã sửa đổi tình tiết định khung “Dùng chất nổ, chất cháy nổ” thành tình tiết “Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ” cho phù hợp với Luật phòng cháy, chữa cháy; bổ sung tình tiết “
Tài sản là bảo vật quốc gia”.
Điều luật đã bỏ các tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” ở các khoản 2, 3, 4 Điều 143 của BLHS năm 1999 .
- Về hình phạt: Điều luật đã bổ sung hình phạt tiền (
từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng) ở khoản 1; giảm mức hình phạt tù tối thiểu và tối đa ở khoản 3 xuống còn từ
05 năm đến 10 năm (hiện hành từ 07 năm đến 15 năm); bỏ hình phạt tù chung thân và giảm mức hình phạt tù tối thiểu ở khoản 4 xuống còn
10 năm (hiện hành là 12 năm).
Điều 179. Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
- Về cấu thành tội phạm
Điều luật đã bổ sung khách thể của tội phạm là tài sản của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp vào tên điều luật và cấu thành của tội phạm; nâng mức thiệt hại của tài sản trong cấu thành cơ bản ở khoản 1 lên thành “từ
100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” (hiện hành từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng
; nâng mức thiệt hại của tài sản trong cấu thành tăng nặng ở khoản 2 lên thành “từ
500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng” (hiện hành là từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng)
, ở khoản 3 là “2.000.000.000 đồng trở lên” (hiện hành là 500.000.000 đồng trở lên).
- Về hình phạt: Điều luật đã bổ sung hình phạt cảnh cáo, bỏ hình phạt tù ở khoản 1; giảm mức hình phạt tù còn “từ
01 năm đến 05 năm” ở khoản 2 (hiện hành là từ 02 năm đến 07 năm)
và từ
05 năm đến 10 năm ở khoản 3 (hiện hành là từ 07 năm đến 15 năm). Do đã bổ sung đối tượng là tài sản của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nên trong hình phạt bổ sung, khoản 4 Điều luật đã bỏ cụm từ “quản lý tài sản của Nhà nước” và bổ sung hình phạt “
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định” từ 01 năm đến 05 năm.
Điều 180. Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản
Điều luật đã tăng mức tối thiểu của hình phạt tiền từ 50.000.000 đồng thành “100.000.000 đồng”, bỏ hình phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm ở khoản 1; bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm và giảm mức tối thiểu của hình phạt tù ở khoản 2 từ 01 năm xuống còn 03 tháng.
II. NHỮNG ĐIỂM MỚI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG CHƯƠNG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
Chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm 2015 đã thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng thể hiện trong các văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020, đặc biệt là chủ trương: "Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", "Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế". Việc sửa đổi, bổ sung chương XVIII nhằm xây dựng BLHS phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước sau Hiến pháp năm 2013, phát huy hơn nữa vai trò của BLHS với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta;
Việc sửa đổi, bổ sung chương này còn nhằm bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh; đồng bộ với các luật, bộ luật đã được ban hành cũng như các luật, dự luật đang được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới như các luật về quyền con người, quyền công dân.
So với Chương XVI của BLHS năm 1999
, thì Chương XVIII của BLHS năm 2015 được cơ cấu lại khoa học và hợp lý hơn. Theo đó, chương này được chia thành 03 mục, mỗi mục là một nhóm tội phạm; cụ thể:
- Mục 1 “Các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại” gồm 12 điều luật (từ Điều 188 đến Điều 199), quy định 18 tội danh (trong đó có 06 điều luật quy định 01 tội danh, 06 điều luật quy định ghép 02 tội danh).
- Mục 2 “Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm” gồm 17 điều luật (từ Điều 200 đến Điều 216), quy định 25 tội danh (trong đó có 14 điều luật quy định 01 tội danh, 01 điều luật quy định ghép 03 tội danh, 02 điều luật quy định ghép 04 tội danh).
- Mục 3 “Các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” gồm 19 điều luật (từ Điều 217 đến Điều 234), quy định 19 tội danh.
Việc sửa đổi, bổ sung Chương XVIII BLHS năm 2015 tập trung vào 06 nội dung cơ bản, đó là: (i) bổ sung chủ thể là pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự; (ii) bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với một số tội phạm; (iii) tách một số tội phạm ghép thành những tội danh độc lập đối với một số tội phạm; (iv) phi hình sự hóa đối với một số tội phạm; (v) thay thế tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng bằng những tội phạm cụ thể; (vi) hình sự hóa một số hành vi phạm tội trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và (vii) cụ thể hóa một số tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt.
1. Phi hình sự hóa đối với một số tội phạm
Với sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế sâu, rộng của nền kinh tế, trước những đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì một số quy định của BLHS về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế hiện nay không còn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế đất nước. Do vậy, BLHS năm 2015 đã phi hình sự hóa đối với 02 tội phạm được quy định tại BLHS năm 1999, đó là tội kinh doanh trái phép (Điều 159); Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế (Điều 167); Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170); Tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng (Điều 178) với những lý do sau:
- Việc phi hình sự hóa hành vi báo cáo sai trong quản lý kinh tế (Điều 167) xuất phát từ yêu cầu phát huy được tính năng động của các cơ quan, doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Bên cạnh đó, việc loại bỏ các tội danh này trong BLHS năm 2015 góp phần đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, phù hợp của chính sách hình sự trong việc xử lý người phạm tội, đảm bảo sự chuẩn xác, thống nhất trong chính sách xử lý hình sự. Góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân như đã được khẳng định tại Hiến pháp 2013. Đây chính là một trong những đòi hỏi để thực hiện chiến lược cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49/NQ-TW đã đề ra.
- Phi hình sự hóa tội kinh doanh trái phép (Điều 159) xuất phát từ thực tế hiện nay, những lĩnh vực cấm kinh doanh theo quy định của Luật đầu tư năm 2014 thu hẹp lại, theo đó Nhà nước chỉ cấm kinh doanh một số lĩnh vực cụ thể và những lĩnh vực này đã được quy định tại một số điều luật cụ thể của BLHS các tội phạm liên quan đến sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng cấm; ma túy; vũ khí; buôn bán người.... Bên cạnh đó, với những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện mà vi phạm đã bị xử phạt hành chính là đủ sức răn đe. Riêng một số lĩnh vực khác thì BLHS đã có quy định cụ thể như tội vận chuyển hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, hoặc một số tội phạm trong lĩnh vực đất đai, bảo hiểm, buôn bán vũ khí, phóng xạ... Do đó, việc duy trì tội kinh doanh trái phép trong BLHS là không còn phù hợp và cần thiết trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay.
- Phi hình sự hóa Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170); Tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng (Điều 178).
2. Bổ sung chủ thể là pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm
BLHS năm 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Đây là quy định mới tiến bộ, phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của việc bảo vệ và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế quy định buộc pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 22 điều luật (quy định 30 tội danh), gồm: Tội buôn lậu (Điều 188); Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 189); Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190); Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 195); Tội đầu cơ (Điều 196); Tội trốn thuế (Điều 200); Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 203); Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán (Điều 209); Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 210); Tội thao túng thị trường chứng khoán (Điều 211); Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216); Tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217); Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 225); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226); Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (Điều 227); Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản (Điều 232); và Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234).
Cũng như hầu hết các tội danh khác có quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại của Bộ luật hình sự năm 2015, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại đối với các tội trong chương này là vô cùng cần thiết và phù hợp, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế thị trường, xu hướng hội nhập, yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và xử lý tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
3. Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Với chủ trương mở rộng áp dụng hình phạt tiền được nêu tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, BLHS năm 2015 đã bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với hầu hết các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, chỉ trừ 06 tội danh không quy định hình phạt tiền là hình phạt chính, đó là tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194); tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả (Điều 207); tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, công cụ chuyển nhượng giả, các giấy tờ có giá giả khác (Điều 208); tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 229); tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (Điều 233).
4. Cụ thể hóa một số tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt
Để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng của các dấu hiệu định tính, định lượng làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc dấu hiệu định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự, các điều luật của chương này đã cố gắng cụ thể hóa tương đối đầy đủ, rõ ràng các dấu hiệu định tính, định lượng như thu lợi bất chính lớn, thu lợi bất chính rất lớn, thu lợi bất chính đặc biệt lớn tại tất cả các điều luật của Chương XVIII có quy định dấu hiệu này (17 điều luật) hoặc dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (các Điều 194, 197, từ Điều 201 đến Điều 215...). Đặc biệt, yếu tố cấu thành cơ bản của hầu hết các tội phạm thuộc chương này đã được cụ thể hóa, như đối với các tội mới được bổ sung vào Chương này (từ Điều 116 đến Điều 222) hoặc một số tội danh hiện hành (Điều 194, 198, các Điều từ 201 đến 204, Điều 207, 208, các Điều từ 227 đến 229).
5. Sửa đổi, bổ sung tội buôn lậu, tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; tách một số tội phạm ghép thành những tội danh độc lập đối với một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
a) Để phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn và bảo đảm quy định của Hiến pháp năm 2013, ngoài khu vực biên giới, Điều 188 (Tội buôn lậu), Điều 189 (Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới) của BLHS năm 2015 đã bổ sung việc buôn bán, vận chuyển từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái quy định của pháp luật cũng cấu thành các tội phạm này. Các điều luật cũng bỏ các tình tiết hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; cụ thể hóa các tình tiết thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; xác định rõ vật phẩm thuộc di tích là Di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị; bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng như Vật phạm pháp là bảo vật quốc gia, Có tổ chức; bổ sung khoản 6 về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại.
b) BLHS hiện hành quy định một số tội phạm ghép thuộc chương các tội xâm phạm quản lý kinh tế. Với những quy định này thì những hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau nhưng lại có chung chính sách xử lý hình sự. Đây là một trong những vướng mắc được nhiều Bộ, ngành và địa phương phản ánh qua các báo cáo tổng kết, các cuộc khảo sát, hội thảo, hội nghị về việc sửa đổi, bổ sung BLHS. Do vậy, để đảm bảo việc phân hóa trách nhiệm hình sự, Chương XVIII BLHS năm 2015 đã tách những tội phạm ghép này thành nhiều tội danh độc lập với chính sách xử lý khác nhau, đảm bảo phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cụ thể:
- Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hành cấm quy định tại Điều 155 BLHS năm 1999 được tách thành 02 tội danh độc lập trong BLHS năm 2015, đó là tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190) và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191);
+ Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190)
Điều luật được chia thành 05 khoản:
Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật hình sự:
“a) Sản xuất, buôn bán thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng từ 50 kilôgam đến dưới 100 kilôgam hoặc từ 50 lít đến dưới 100 lít;
b) Buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao;
c) Sản xuất, buôn bán pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;
d) Sản xuất, buôn bán hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Sản xuất, buôn bán hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
e) Sản xuất, buôn bán hàng hóa dưới mức quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”
Ngoài các tình tiết định khung tăng nặng như BLHS năm 1999, khoản 2 Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “Hàng phạm pháp có số lượng rất lớn hoặc thu lợi bất chính rất lớn” của BLHS năm 1999 bằng các tình tiết “Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng từ 100 kilôgam đến dưới 300 kilôgam hoặc từ 100 lít đến dưới 300 lít”, “Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao”, “Pháo nổ từ 40 kilôgam đến dưới 120 kilôgam”, “Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng đến dưới 700.000.000 đồng” và bổ sung thêm tình tiết “Buôn bán qua biên giới, trừ hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu”; khoản 3 của Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn hoặc thu lợi bất chính lớn” bằng tình tiết “Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng 300 kilôgam trở lên hoặc 300 lít trở lên”, “Thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên”, “Pháo nổ 120 kilôgam trở lên”, “Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên”, “Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 700.000.000 đồng trở lên”.
Khoản 5 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: để cá thể hóa hình phạt đối với tội phạm này phù hợp với mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, Điều luật đã tăng mức hình phạt tiền và tù ở khoản 1 là “phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” (hiện hành là từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm); khoản 2 quy định hình phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 10 năm; khoản 3 quy định hình phạt tù từ 08 năm đến 15 năm; khoản 4 đã tăng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền lên từ “20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” (hiện hành là từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng).
+ Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191)
Điều luật được chia thành 05 khoản:
Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật hình sự:
“a) Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng từ 50 kilôgam đến dưới 100 kilôgam hoặc từ 50 lít đến dưới 100 lít;
b) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao;
c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;
d) Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
e) Hàng hóa dưới mức quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”
Ngoài các tình tiết định khung tăng nặng như BLHS năm 1999, khoản 2 Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “Hàng phạm pháp có số lượng rất lớn hoặc thu lợi bất chính rất lớn” của BLHS năm 1999 bằng các tình tiết “Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng từ 100 kilôgam đến dưới 300 kilôgam hoặc từ 100 lít đến dưới 300 lít”, “Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao”, “Pháo nổ từ 40 kilôgam đến dưới 120 kilôgam”, “Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng đến dưới 700.000.000 đồng” và bổ sung thêm tình tiết “Vận chuyển qua biên giới, trừ hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu”; khoản 3 của Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn hoặc thu lợi bất chính lớn” bằng tình tiết “Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng 300 kilôgam trở lên hoặc 300 lít trở lên”, “Thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên”, “Pháo nổ 120 kilôgam trở lên”, “Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên”, “Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 700.000.000 đồng trở lên”.
Khoản 5 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: để cá thể hóa hình phạt đối với tội phạm này phù hợp với mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, Điều luật đã tăng mức hình phạt tiền và giảm hình phạt tù ở khoản 1 là “phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” (hiện hành là từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm); khoản 2 quy định hình phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm; khoản 3 quy định hình phạt tù phạt tù từ 05 năm đến 10 năm; khoản 4 đã tăng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền lên từ “10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng” (hiện hành là từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng).
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192)
Điều luật được chia thành 05 khoản:
So với điều luật cũ, khoản 1 điều luật mới quy định rõ, cụ thể đối tượng sản xuất, buôn bán hàng giả. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194 và 195 của Bộ luật hình sự, thì bị xử lý hình sự:
“a) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 150.000.000 đồng hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.”
Ngoài các tình tiết định khung tăng nặng như BLHS năm 1999, khoản 2 Điều luật đã sửa đổi, bổ sung tình tiết “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng” và cụ thể hóa các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “thu lợi bất chính lớn” của BLHS năm 1999 bằng các tình tiết “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Làm chết người”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%”, “Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng” và bổ sung tình tiết “Buôn bán qua biên giới”.
Khoản 3 của Điều luật đã sửa đổi, bổ sung tình tiết “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên” bằng các tình tiết “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên”; cụ thể hóa tình tiết “Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn” bằng tình tiết “Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên”; “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng các tình tiết “Làm chết 02 người trở lên”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên”, “Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên”.
Khoản 5 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: để cá thể hóa hình phạt đối với tội phạm này phù hợp với mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, Điều luật đã bổ sung hình phạt chính là hình phạt tiền “từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng” và tăng mức hình phạt tù ở khoản 1 “tù từ 01 năm đến 05 năm” (hiện hành là tù từ 06 tháng đến 05 năm); khoản 2 “05 năm đến 10 năm” (hiện hành là 03 năm đến 10 năm); khoản 4 tăng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền lên từ “20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng” (hiện hành là từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng).
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh quy định tại Điều 157 BLHS năm 1999 được tách thành 02 tội danh độc lập của BLHS năm 2015, gồm có tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc phòng bệnh, thuốc chữa bệnh (Điều 194).
+ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193)
Điều luật được chia thành 05 khoản:
So với Điều luật cũ, khoản 1 Điều luật mới đã bổ sung đối tượng của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm.
Ngoài các tình tiết định khung tăng nặng như BLHS năm 1999, khoản 2 Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” của BLHS năm 1999 và bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng: “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%”, “Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” và “Buôn bán qua biên giới”.
Khoản 3 của Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng: “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên”, “Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng”, “Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng”, “Làm chết người”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%”.
Khoản 4 của Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng: “Thu lợi bất chính 1.500.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên”, “Làm chết 02 người trở lên”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên”.
Khoản 6 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: để cá thể hóa hình phạt đối với tội phạm này phù hợp với mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, Điều luật đã giảm mức hình phạt tù ở khoản 1 “đến 05 năm” (hiện hành là 07 năm); khoản 2 “đến 10 năm” (hiện hành là 12 năm); khoản 3 tù từ 10 năm đến 15 năm (hiện hành là 12 năm đến 20 năm); khoản 4 “tù
từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân”; khoản 5 tăng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền lên từ “20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” (hiện hành là từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng).
+ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194)
Điều luật được chia thành 05 khoản:
So với Điều luật cũ, khoản 1 giữ nguyên như quy định của BLHS năm 1999; khoản 2 Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” của BLHS năm 1999 và bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng: “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%”, “Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” và bổ sung tình tiết “Buôn bán qua biên giới”.
Khoản 3 của Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng: “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên”, “Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng”, “Làm chết người”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%”, “Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng”.
Khoản 4 của Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng: “Thu lợi bất chính 2.000.000.000 đồng trở lên”, “Làm chết 02 người trở lên”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên”, “Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên”.
Khoản 5 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: Điều luật giữ nguyên hình phạt chính như hiện hành; khoản 5 tăng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền lên từ “20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” (hiện hành là từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng).
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi (Điều 195)
Điều luật được chia thành 06 khoản:
So với Điều luật cũ, khoản 1 Điều luật mới quy định cụ thể cách xác định hàng giả và cụ thể hóa các tình tiết “số lượng lớn”, “gây hậu quả nghiêm trọng” làm căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với người sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“a) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 150.000.000 đồng hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng.”
Ngoài các tình tiết định khung tăng nặng như BLHS năm 1999, khoản 2 Điều luật đã cụ thể hóa các tình tiết “Hàng giả có số lượng rất lớn” và “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” của BLHS năm 1999 bằng các tình tiết “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng”, “Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” và bổ sung tình tiết “Buôn bán qua biên giới”.
Khoản 3 của Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “hàng giả có số lượng đặc biệt lớn”, “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng các tình tiết “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng”, “Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng”.
Khoản 4 của Điều luật mới được bổ sung với các tình tiết định khung tăng nặng “Gây thiệt hại về tài sản 3.000.000.000 đồng trở lên”, “Thu lợi bất chính 2.000.000.000 đồng trở lên”.
Khoản 6 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: Điều luật đã tăng hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 1 lên “từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng”; nâng mức khởi điểm hình phạt tù ở khoản 2 lên 05 năm, khoản 3 lên 10 năm; bổ sung khoản 4 với hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm; khoản 5 tăng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền lên từ “20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” (hiện hành là từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng).
- Tội đầu cơ (Điều 196)
Điều luật được chia thành 05 khoản:
So với Điều luật cũ, khoản 1 Điều luật mới đã xác định loại hàng hóa cũng như cụ thể hóa các tình tiết “số lượng lớn”, “thu lợi bất chính lớn”, “gây hậu quả nghiêm trọng” để làm căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với người lợi dụng tình hình khan hiếm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh hoặc tình hình khó khăn về kinh tế mua vét hàng hóa thuộc danh mục mặt hàng bình ổn giá hoặc thuộc danh mục hàng hóa được Nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“a) Hàng hoá trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.”
Ngoài các tình tiết định khung tăng nặng như BLHS năm 1999, khoản 2 Điều luật đã cụ thể hóa các tình tiết “Hàng đầu cơ có số lượng rất lớn”, “Thu lợi bất chính rất lớn”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” của BLHS năm 1999 bằng các tình tiết “Hàng hóa trị giá từ 1.500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng”, “Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”, “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
Khoản 3 của Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “Hàng đầu cơ có số lượng đặc biệt lớn”, “Thu lợi bất chính đặc biệt lớn”, bằng các tình tiết “Hàng hóa trị giá 3.000.000.000 đồng trở lên”, “Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên”.
Khoản 5 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: Điều luật đã tăng hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 1 lên “từ 30.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng”; bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 2 là “phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng và giảm mức tối đa hình phạt tù ở khoản 2 xuống còn 07 năm; bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 3 là “phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng và giảm mức tối thiểu hình phạt tù ở khoản 3 xuống còn 07 năm; khoản 4 tăng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền lên từ “20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng” (hiện hành là từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng).
- Tội quảng cáo gian dối (Điều 197)
So với quy định của BLHS năm 1999, Điều 197 BLHS năm 2015 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” và hình phạt tù “từ 06 tháng đến 03 năm” ở khoản 1.
- Tội lừa dối khách hàng (Điều 198)
Khoản 1 Điều luật đã bổ sung thêm loại hình hàng hóa là “cung cấp dịch vụ” để xử lý trách nhiệm hình sự. Người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.”
Khoản 2 Điều luật đã bổ sung các tình tiết định khung tăng nặng “Có tổ chức”, “Có tính chất chuyên nghiệp”, “Dùng thủ đoạn xảo quyệt”, “Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên”.
Về hình phạt: Điều luật đã tăng hình phạt tiền là hình phạt chính “từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” và bỏ hình phạt tù “từ 06 tháng đến 03 năm” ở khoản 1; bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 2 là “phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng và giảm mức hình phạt tù ở khoản 2 xuống còn “từ 01 năm đến 05 năm”; khoản 3 tăng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền lên từ “20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” (hiện hành là từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng) và bổ sung hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Tội vi phạm quy định về cung ứng điện (Điều 199)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
So với Điều luật cũ, khoản 1 Điều luật mới đã cụ thể hóa các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” làm căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với người có trách nhiệm mà đóng điện, cắt điện, từ chối cung cấp điện trái quy định của pháp luật hoặc trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
d) Đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”
Khoản 2 Điều luật đã cụ thể hóa các tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” của BLHS năm 1999 bằng các tình tiết “Làm chết người”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%”, “Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng”.
Khoản 3 của Điều luật mới được bổ sung trên cơ sở phân hóa trách nhiệm hình sự và cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng các tình tiết “Làm chết 02 người trở lên”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên”, “Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên”.
Về hình phạt: Điều luật đã tăng hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 1 lên “từ 30.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng”; bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 2 là “phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Trên cơ sở phân hóa hình phạt, khoản 2 có hình phạt tù “từ 01 năm đến 05 năm”, khoản 3 có hình phạt tù “từ 03 năm đến 07 năm”; khoản 4 tăng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền lên từ “10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng” (hiện hành là từ 2.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng).
6. Thay thế tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165) bằng những tội phạm cụ thể
Để nền kinh tế thị trường của một quốc gia phát triển lành mạnh, năng động thì cần phải khai thác mọi tiềm năng sẵn có và phát huy hết nguồn lực của mỗi cá nhân, tổ chức qua đó thúc đẩy mọi chủ thể trong xã hội phát huy, tìm tòi, sáng tạo, làm giàu cho bản thân và cho đất nước. Muốn làm được điều này, Nhà nước cần xây dựng hành lang pháp lý để người dân được quyền làm những điều pháp luật không cấm. Với tinh thần đó, thì việc duy trì tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng không đáp ứng được yêu cầu trên. Tội này được coi như là một cái túi để xử lý tất cả những trường hợp mà cơ quan tố tụng không thể hoặc không muốn xử lý người phạm tội về những tội phạm khác. Điều này vô hình chung đã làm cho mọi cá nhân, tổ chức không dám đi đầu, phát huy sáng kiến thúc đẩy sản xuất kinh doanh vì sợ vướng vào tội này. Điều này lại càng nghiêm trọng hơn khi hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế của ta đang trong quá trình hoàn thiện, tính ổn định không cao, nên việc tiếp tục duy trì tội này trong BLHS thực sự là một rào cản rất lớn cho quá trình phát triển kinh tế, là cơ sở để các cơ quan tố tụng áp dụng nguyên tắc tương tự - vốn là điều cấm kỵ trong một nền tư pháp hiện đại – để xử lý các hành vi mà BLHS chưa dự liệu trước.
Việc không quy định thành một tội riêng hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng mà thay vào đó, BLHS năm 2015 đã bổ sung một số tội danh mới (mang đặc trưng của tội cố ý làm trái) vào từng lĩnh vực cụ thể. BLHS năm 2015 đã quy định 41 tội danh xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thuộc 3 nhóm lĩnh vực: 1) sản xuất, kinh doanh, thương mại; 2) thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; 3) lĩnh vực kinh tế khác. Bên cạnh đó, BLHS cũng có một số điều khoản mang tính chất ”cố ý làm trái” trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Ngoài ra, trong chương các tội phạm về chức vụ cũng đã quy định một số tội danh liên quan đến hành vi “cố ý làm trái” của người có chức vụ, quyền hạn như: tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ.
BLHS năm 2015 đã có nhiều tội danh mang tính cố ý làm trái để thay thế cho tội danh cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (như: lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm...), đồng thời làm rõ cấu thành tội phạm của những tội phạm đã có sẵn như: trốn thuế, các tội trong lĩnh vực quản lý đất đai, bảo vệ tài nguyên rừng... Ngoài ra, BLHS năm 2015 cũng đã bổ sung các tội danh sau đây để thay thế cho Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là những cơ sở pháp lý để xử lý những hành vi phạm tội cố ý làm trái trong từng lĩnh vực cụ thể, mà không quy định thành một tội riêng như hiện nay.
- Tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng:
“a) Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;
b) Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận;
c) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan 30% trở lên thuộc một trong các trường hợp: thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.”.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền”, “Thu lợi bất chính 3.000.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho người khác 5.000.000.000 đồng trở lên”; khoản 3 quy định về hình phạt bổ sung.
+ Khoản 4 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm, khoản 2 quy định hình phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; khoản 3 quy định hình phạt bổ sung là “phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
- Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản (Điều 218)
Điều luật được chia thành 03 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho người khác từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng:
“a) Lập danh sách khống về người đăng ký mua tài sản bán đấu giá;
b) Lập hồ sơ khống, hồ sơ giả tham gia hoạt động bán đấu giá tài sản;
c) Thông đồng dìm giá hoặc nâng giá trong hoạt động bán đấu giá tài sản”.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Có tổ chức”, “Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho người khác 300.000.000 đồng trở lên”, “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”; khoản 3 quy định
về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm, khoản 2 quy định hình phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; khoản 3 quy định hình phạt bổ sung là “phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
- Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Vì vụ lợi”, “Có tổ chức”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, “Gây thất thoát, lãng phí từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với tình tiết “gây thất thoát, lãng phí 1.000.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, khoản 2 quy định hình phạt tù từ 03 năm đến 12 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
- Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của Bộ luật này:
“a) Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư;
b) Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư;
c) Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án;
d) Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.”.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Vì vụ lợi”, “Có tổ chức”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với tình tiết “gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, khoản 2 quy định hình phạt tù từ 03 năm đến 12 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
- Tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 221)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm:
“a) Giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán;
b) Dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật;
c) Để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán;
d) Hủy bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ theo quy định của Luật Kế toán;
đ) Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán”.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Vì vụ lợi”, “Có tổ chức”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với tình tiết “gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, khoản 2 quy định hình phạt tù từ 03 năm đến 12 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
- Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 222)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm:
“a) Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu;
b) Thông thầu;
c) Gian lận trong đấu thầu;
d) Cản trở hoạt động đấu thầu;
đ) Vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu;
e) Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định dẫn đến nợ đọng vốn của nhà thầu;
g) Chuyển nhượng thầu trái phép”.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Vì vụ lợi”, “Có tổ chức”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với tình tiết “gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, khoản 2 quy định hình phạt tù từ 03 năm đến 12 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
- Tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 223)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, làm thất thoát tiền thuế phải nộp từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm:
“a) Thực hiện việc miễn thuế, giảm thuế, xoá nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt, hoàn thuế không đúng quy định của Luật quản lý thuế và các quy định khác của pháp luật về thuế;
b) Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế không đúng quy định của Luật Quản lý thuế và quy định khác của pháp luật về thuế”.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Vì vụ lợi”, “Có tổ chức”,“Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Làm thất thoát tiền thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với tình tiết “gây thất thoát tiền thuế 1.000.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, khoản 2 quy định hình phạt tù từ 03 năm đến 12 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
- Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 224)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm:
“a) Quyết định đầu tư xây dựng không đúng quy định của Luật xây dựng;
b) Lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, điều chỉnh dự toán, nghiệm thu công trình sử dụng vốn của Nhà nước trái với quy định của Luật xây dựng;
c) Lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực để thực hiện hoạt động xây dựng;
d) Dàn xếp, thông đồng làm sai lệch kết quả lập dự án, khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, xây dựng công trình”
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Vì vụ lợi”, “Có tổ chức”,“Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Làm thất thoát tiền thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với tình tiết “gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, khoản 2 quy định hình phạt tù từ 03 năm đến 12 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
- Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 230)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm:
“a) Vi phạm quy định của pháp luật về bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư;
b) Vi phạm quy định của pháp luật về bồi thường về tài sản, về sản xuất kinh doanh.”
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác”, “Có tổ chức”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, “Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với tình tiết “gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, khoản 2 quy định hình phạt tù từ 03 năm đến 12 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
7. Sửa đổi, bổ sung các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; hình sự hóa một số hành vi phạm tội trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán
a) Các tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm
Mặc dù Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung ngày 20-11-2014) đã quy định các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội (tại các điều 134, 135, 136 và 137) như: (1) các hành vi vi phạm pháp luật về đóng bảo hiểm xã hội (không đóng bảo hiểm xã hội, đóng không đúng thời gia quy định, đóng không đúng mức quy định, đóng không đúng số người thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội); (2) các hành vi vi phạm pháp luật về thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội (cố tình gây khó khăn hoặc cản trở việc hưởng bảo hiểm xã hội của người lao động, không cấp sổ bảo hiểm xã hội hoặc không trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động); (3) các hành vi vi phạm pháp luật về sử dụng tiền đóng và quỹ bảo hiểm xã hội (sử dụng tiền đóng và quỹ bảo hiểm xã hội trái quy định của pháp luật, báo cáo sai sự thật, cung cấp sai lệnh thông tin, số liệu tiền đóng và quỹ bảo hiểm xã hội); (4) các hành vi vi phạm pháp luật về lập hồ sơ để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (gian lận, giả mạo hồ sơ, cấp giấy chứng nhận, giám định sai). Từ các quy định này, Chính phủ đã ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, trong đó quy định những chế tài xử lý hành chính đối với những hành vi vi phạm này. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của người lao động. Một vấn đề nổi cộm vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là tình trạng chậm đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động ngày càng gia tăng với số tiền lớn xảy ra ở hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước. Nghiêm trọng có nhiều đơn vị nợ đóng bảo hiểm cho người lao động trong thời gian dài, có trường hợp doanh nghiệp chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của người lao động, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của hàng trăm nghìn người lao động, dẫn đến việc họ không được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế kịp thời. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật và thực tiễn kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cũng xuất hiện ngày càng phổ biến. Qua thực tiễn, vi phạm xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, nhưng tập trung nhiều vào hai lĩnh vực chủ yếu là bảo hiểm phi nhân thọ (bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm hàng hóa...) và bảo hiểm nhân thọ.
Mặc dù có thể vận dụng một số quy định của BLHS để xử lý đối với hành vi gian lận bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và hành vi trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm hội. Tuy nhiên, do lĩnh vực bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và kinh doanh bảo hiểm có những đặc thù. Việc gian lận, trục lợi trong lĩnh vực này có tính chất tương đối phổ biến, không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, người tham gia bảo hiểm mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sự ổn định và phát triển của chính sách an sinh xã hội, ảnh hưởng đến chính sách thu hút đầu tư để phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế thị trường và hội nhập thì việc bảo đảm sự ổn định và phát triển của chính sách an sinh xã hội, bảo vệ lực lượng lao động trong xã hội là một yêu cầu tất yếu. Nền công nghiệp ngày càng phát triển, đất đai dùng vào sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp dần đã tạo ra một lực lượng lao động làm công ăn lương dồi dào. Điều này đòi hỏi phải có chính sách an sinh xã hội tốt để đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, bảo đảm sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Do vậy, BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm 04 tội danh liên quan đến lĩnh vực này, đó là:
- Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213)
Điều luật được chia thành 05 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tiền bảo hiểm từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, thì bị xử lý hình sự:
“a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;
b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;
c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm;
d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm trừ trường hợp luật quy định khác.”
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Có tổ chức”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Chiếm đoạt số tiền bảo hiểm từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Gây thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”, “Tái phạm nguy hiểm”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Chiếm đoạt số tiền bảo hiểm 500.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
+ Khoản 5 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, khoản 2 quy định hình phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 03 năm đến 07 năm; khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
- Tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều 214)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây, chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng mà không thuộc trường hợp quy định tại một trong các điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này:
“a) Lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ bảo hiểm xã hội, hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội;
b) Dùng hồ sơ giả hoặc hồ sơ đã bị làm sai lệch nội dung lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.”
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Có tổ chức”, “Có tính chất chuyên nghiệp”, “Chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Gây thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Tái phạm nguy hiểm”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp 500.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm, khoản 2 quy định hình phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm; khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
- Tội gian lận bảo hiểm y tế (Điều 215)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây, chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng mà không thuộc trường hợp quy định tại một trong các điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này:
“a) Lập hồ sơ bệnh án, kê đơn thuốc khống hoặc kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi phí giường bệnh và các chi phí khác mà thực tế người bệnh không sử dụng;
b) Giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế hoặc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế được cấp khống, thẻ bảo hiểm y tế giả, thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa, thẻ bảo hiểm y tế của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ bảo hiểm y tế trái quy định”.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Có tổ chức”, “Có tính chất chuyên nghiệp”, “Chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Gây thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Tái phạm nguy hiểm”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế 500.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm, khoản 2 quy định hình phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, khoản 3 quy định hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm; khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
- Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216)
Điều luật được chia thành 04 khoản:
+ Khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp sau đây, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm:
“a) Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
b) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 người đến dưới 50 người lao động”.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”, “Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 người đến dưới 200 người”, “Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều này”; khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: “Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên”, “Trốn đóng bảo hiểm cho 200 người trở lên, “Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 2 Điều này”; khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
+ Khoản 5 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: khoản 1 quy định hình phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm, khoản 2 quy định hình phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng năm đến 03 năm, khoản 3 quy định hình phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; khoản 4 quy định hình phạt bổ sung là “phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
b) Các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
Luật chứng khoán năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung ngày 24-11-2010) đã quy định các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán ở các điều từ 121 đến 130, đồng thời Luật cũng quy định các hành vi này có thể bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, do pháp luật hình sự Việt Nam không quy định tội phạm và hình phạt trong luật chuyên ngành, mà phải do Bộ luật hình sự quy định, nên hiện nay các hành vi như: (1) giả mạo hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng và giả mạo hồ sơ niêm yết chứng khoán; (2) hành vi tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán trái quy định của Luật chứng khoán; (3) hành vi tạo dựng, tuyên truyền thông tin sai sự thật, cố ý cung cấp tài liệu giả, làm giả, làm sai lệch hoặc tiêu hủy tài liệu giao dịch để lừa đảo, dụ dỗ khách hàng mua bán chứng khoán tuy rất nguy hiểm và xảy ra nhiều trong thực tiễn nhưng rất khó xử lý về mặt hình sự. Điều này dẫn đến hệ quả là không đảm bảo tính răn đe, cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc mà thực tiễn đã đặt ra, BLHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung các tội danh trong lĩnh vực chứng khoán, cụ thể là:
- Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán (Điều 209)
+ Để phù hợp với thực tiễn áp dụng và quy định của các văn bản pháp luật chuyên ngành, khoản 1 Điều luật đã thay cụm từ “sự thật liên quan đến việc” bằng cụm từ “thông tin trong hoạt động”; cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng một trong các trường hợp:
“a) Gây thiệt hại cho nhà đầu tư từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng;
b) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán mà còn vi phạm”.
+ Khoản 2 đã cụ thể hóa tình tiết “Thu lợi bất chính lớn”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng các tình tiết “Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 3.000.000.000 đồng trở lên”.
+ Khoản 4 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: khoản 1 quy định giảm mức hình phạt tù tối thiểu xuống còn 03 tháng (hiện hành là 06 tháng); bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 2 là “phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng”; tăng hình phạt bổ sung là tiền “từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng” (hiện hành là từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng).
- Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 210)
+ Để phù hợp với thực tiễn áp dụng và luật hóa một số hướng dẫn của các văn bản dưới luật còn phù hợp, khoản 1 đã cụ thể hóa tình tiết “thu lợi bất chính lớn” bằng tình tiết “
thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho nhà đầu từ từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng”
+ Khoản 2 đã cụ thể hóa tình tiết “Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn”, “Gây hậu quả nghiêm trọng” bằng các tình tiết “Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 1.500.000.000 đồng trở lên”.
+ Khoản 4 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: khoản 1 quy định tăng mức hình phạt tiền “từ
500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng” (hiện hành là từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng), bỏ “hình phạt cải tạo không giam giữ”; bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 2 là “phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng”; tăng hình phạt bổ sung là tiền “từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng” (hiện hành là từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng).
- Tội thao túng thị trường chứng khoán (Điều 211)
Để thuận lợi trong quá trình áp dụng và bảo đảm tính thống nhất với Luật chứng khoán, khoản 1 Điều luật đã quy định cụ thể các hành vi thao túng giá chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng bằng một trong những hành vi sau đây
thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho nhà đầu tư từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng:
“a) Sử dụng một hoặc nhiều tài khoản giao dịch của mình hoặc của người khác hoặc thông đồng với nhau liên tục mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo;
b) Thông đồng với người khác đặt lệnh mua và bán cùng loại chứng khoán trong cùng ngày giao dịch hoặc thông đồng với nhau giao dịch mua bán chứng khoán mà không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu chỉ luân chuyển giữa các thành viên trong nhóm nhằm tạo giá chứng khoán, cung cầu giả tạo;
c) Liên tục mua hoặc bán chứng khoán với khối lượng chi phối vào thời điểm mở cửa hoặc đóng cửa thị trường nhằm tạo ra mức giá đóng cửa hoặc giá mở cửa mới cho loại chứng khoán đó trên thị trường;
d) Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục đặt lệnh mua, bán chứng khoán gây ảnh hưởng lớn đến cung cầu và giá chứng khoán, thao túng giá chứng khoán;
đ) Đưa ra ý kiến một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua phương tiện thông tin đại chúng về một loại chứng khoán, về tổ chức phát hành chứng khoán nhằm tạo ảnh hưởng đến giá của loại chứng khoán đó sau khi đã thực hiện giao dịch và nắm giữ vị thế đối với loại chứng khoán đó;
e) Sử dụng các phương thức hoặc thực hiện các hành vi giao dịch khác để tạo cung cầu giả tạo, thao túng giá chứng khoán.”
+ Khoản 2 đã cụ thể hóa tình tiết “Thu lợi bất chính lớn”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng các tình tiết “Thu lợi bất chính 1.500.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 3.000.000.000 đồng trở lên”.
+ Khoản 4 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: khoản 1 quy định tăng mức hình phạt tiền “từ
500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng” (hiện hành là từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng), bỏ “hình phạt cải tạo không giam giữ”; bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 2 là “phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng”; tăng hình phạt bổ sung là tiền “từ 50.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng” (hiện hành là từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng).
- Tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán (Điều 212)
Đây là điều luật mới được bổ sung, khoản 1 quy định việc xử lý hình sự đối với người làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán thu lợi bất chính từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho nhà đầu tư từ 1.500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng.
Khoản 2 quy định các tình tiết định khung tăng nặng: “Thu lợi bất chính 2.000.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 3.000.000.000 đồng trở lên”, “Có tổ chức”, “Tái phạm nguy hiểm”.
Về hình phạt: khoản 1 quy định “phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”, khoản 2 quy định “phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”, khoản 3 quy định về hình phạt bổ sung “phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
c) Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng
Hành vi gian lận thuế thời gian gần đây cũng có diễn biến hết sức phức tạp cả về số lượng, tính chất và quy mô. Tuy nhiên, hiện tại chúng ta mới xử lý hành vi trốn thuế theo tội trốn thuế, chứ chưa có cơ sở pháp lý để xử lý hành vi gian lận thuế. Để hạn chế bất cập, khó khăn mà thực tiễn đã đặt ra và đáp ứng tình hình mới, BLHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung các tội trong lĩnh vực thuế, cụ thể là:
- Tội trốn thuế (Điều 200)
Trên cơ sở các hướng dẫn của Thông tư liên tịch và các văn bản chuyên ngành, khoản 1 Điều luật đã xác định cụ thể hành vi trốn thuế là một trong các hành vi sau:
a) Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật;
b) Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp;
c) Không xuất hoá đơn khi bán hàng hoá, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hoá đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hoá, dịch vụ đã bán;
d) Sử dụng hoá đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hoá, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;
đ) Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;
e) Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan;
g) Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
h) Cấu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hoá;
i) Sử dụng hàng hoá thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế.”
Khoản 2 quy định bổ sung các tình tiết định khung tăng nặng: “Có tổ chức”, “Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”, “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Tái phạm nguy hiểm”.
Khoản 6 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: khoản 1 quy định “phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm” (hiện hành là phạt tiền từ một lần đến 05 lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm), khoản 2 quy định “phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm”, khoản 3 quy định “phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”, khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung “phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
- Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự (Điều 201)
Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực thi và phù hợp với thực tiễn, khoản 1 của Điều luật đã lấy mức lãi suất, số tiền thu lợi bất chính để xác định hành vi cho vay lãi nặng, cụ thể là: trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này thì bị xử lý hình sự theo khoản 1 Điều luật. Khoản 2 đã cụ thể hóa tình tiết “thu lợi bất chính lớn” bằng tình tiết “thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên”.
Về hình phạt: khoản 1 quy định “phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm” (hiện hành là phạt tiền từ 01 lần đến 10 lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm), khoản 2 bổ sung hình phạt tiền “từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng”, khoản 3 quy định về hình phạt bổ sung “phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
- Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả (Điều 202)
Khoản 1 đã làm rõ tem giả, vé giả với số lượng lớn là “Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng từ 15.000 đến dưới 30.000 đơn vị”, “Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” và bổ sung tình tiết “Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng”; khoản 2 bổ sung các tình tiết định khung tăng nặng “Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng 30.000 đơn vị trở lên”, “Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá 200.000.000 đồng trở lên”, “Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên”.
Về hình phạt: khoản 1 quy định “phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”, khoản 2 quy định “phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”, khoản 3 quy định về hình phạt bổ sung “phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
- Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 203)
Khoản 1 đã bỏ tình tiết định tội “hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” và cụ thể hóa tình tiết “với số lượng lớn” bằng tình tiết “ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng”, khoản 2 đã cụ thể hóa các tình tiết định khung tăng nặng “có số lượng rất lớn hoặc đặc biệt lớn”, “thu lợi bất chính lớn”, “Gây hậu quả nghiêm trọng” bằng các tình tiết “Hóa đơn, chứng từ ở dạng phôi từ 100 số trở lên hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 30 số trở lên”, “Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước 100.000.000 đồng trở lên”.
Khoản 4 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
Về hình phạt: khoản 1 giữ nguyên hình phạt như quy định của BLHS năm 1999; bổ sung hình phạt tiền ở khoản 2 “phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”, giảm mức phạt tiền tối đa ở hình phạt bổ sung ở khoản 3 xuống còn 50.000.000 đồng (hiện hành là 100.000.000 đồng).
- Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 204)
Khoản 1 đã bỏ tình tiết định tội “hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” và cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng các tình tiết “gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước hoặc cho người khác từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”; để phù hợp với thực tiễn áp dụng, khoản 2 đã bỏ tình tiết “có tổ chức” và cụ thể hóa tình tiết định khung “Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng tình tiết “Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên”.
Về hình phạt: khoản 1 đã tăng mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ lên 3 năm (hiện hành là 2 năm) và bỏ hình phạt tù; bổ sung hình phạt tiền ở khoản 2 “phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng” và giảm hình phạt tù xuống là “tù từ 06 tháng đến 03 năm”; hình phạt bổ sung ở khoản 3 được giữ nguyên như hiện hành.
- Tội lập quỹ trái phép (Điều 205)
Để phù hợp với thực tiễn áp dụng, điều luật đã không lấy giá trị của quỹ trái phép làm căn cứ định tội, định khung hình phạt như quy định của BLHS năm 1999 mà lấy giá trị thiệt hại cho tài sản của nhà nước do hành vi lập quỹ trái quy định của pháp luật gây ra để làm căn cứ định tội và định khung hình phạt.
- Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng (Điều 206)
Trên cơ sở các quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản liên quan, Điều luật đã quy định cụ thể các vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Khoản 1 Điều luật quy định về việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng:
“a) Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
b) Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
c) Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng;
d) Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm;
đ) Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
e) Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
g) Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;
h) Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
i) Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
k) Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng.”
Về hình phạt: Để phù hợp với thực tiễn và có chính sách xử lý phù hợp, khoản 1 đã tăng mức hình phạt tiền, giảm mức hình phạt tù “phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”; khoản 2 quy định “phạt tù từ 03 năm đến 07 năm”, khoản 3 quy định “phạt tù từ 07 năm đến 12 năm”, khoản 4 quy định “phạt tù từ 12 năm đến 20 năm”, khoản 5 quy định hình phạt bổ sung “người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
- Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả (Điều 207)
Điều luật đã không quy định hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành ngân phiếu giả, công trái giả mà hành vi này sẽ bị xử lý hình sự theo những tội danh khác, cụ thể hóa các trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng bằng các tình tiết “tiền giả có trị giá tương ứng từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng”, “tiền giả có trị giá tương ứng từ 50.000.000 đồng trở lên”; bổ sung khoản 4 về việc xử lý hình sự người chuẩn bị phạm tội.
Về Hình phạt: Điều luật giữ nguyên như quy định của BLHS năm 1999.
- Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác (Điều 208)
Ngoài Séc còn có nhiều công cụ chuyển nhượng khác cũng cần được bảo vệ và xử lý nghiêm đối với hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các công cụ chuyền nhượng giả. Do vậy, Điều luật đã thay cụm từ “séc giả” bằng cụm từ “công cụ chuyển nhượng giả”; cụ thể hóa các trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng bằng các tình tiết “công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác có trị giá tương ứng từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng”, “công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác có trị giá tương ứng từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng”, “công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác có trị giá tương ứng từ 300.000.000 đồng trở lên”.
8. Về một số tội phạm khác
- Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 225)
Để phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình áp dụng, khoản 1 Điều luật đã bổ sung các tình tiết “thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng”, “gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”; bổ sung các tình tiết định khung “Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên”, “Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên”.
Khoản 4 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
- Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226)
Để phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình áp dụng, khoản 1 Điều luật đã bổ sung các tình tiết “thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng”, “gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” “hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”; bổ sung các tình tiết định khung “Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý 500.000.000 đồng trở lên”, “Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên”.
Khoản 4 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
- Tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (Điều 227)
Khoản 1 Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng một trong những trường hợp sau đây:
“a) Thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc khoáng sản khác từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Khoáng sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”
Khoản 2 đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng các tình tiết “Thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc khoáng sản khác 500.000.000 đồng trở lên”, “Khoáng sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên”, “ Gây sự cố môi trường”, “Làm chết người”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên”; bổ sung tình tiết “Có tổ chức”
Khoản 4 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
- Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 229)
Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS năm 1999 còn phù hợp, khoản 1 Điều luật đã bỏ tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng và xác định cụ thể đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn là “Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m
2) đến dưới 30.000 mét vuông (m
2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m
2) đến dưới 50.000 mét vuông (m
2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m
2) đến dưới 40.000 mét vuông (m
2)”, “Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp”;
Khoản 2 đã cụ thể hóa đất có diện tích rất lớn hoặc có giá trị rất lớn là “Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m
2) đến dưới 70.000 mét vuông (m
2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m
2) đến dưới 100.000 mét vuông (m
2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m
2) đến dưới 80.000 mét vuông (m
2)”, “Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp”; cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
Khoản 3 đã cụ thể hóa đất có diện tích đặc biệt lớn hoặc có giá trị đặc biệt lớn là “Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m
2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m
2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m
2) trở lên”, “Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp”.
Về hình phạt: Điều luật giữ nguyên như quy định của BLHS năm 1999.
- Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ (Điều 231)
Khoản 1 Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng tình tiết “gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng”, khoản 2 đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng tình tiết “Gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ 300.000.000 đồng trở lên”, “Gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
- Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản (Điều 232)
+ Khoản 1 quy định việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 243 của Bộ luật này:
“a) Khai thác trái phép rừng sản xuất là rừng trồng từ 20 mét khối (m
3) đến dưới 40 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 15 mét khối (m
3) đến dưới 30 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
b) Khai thác trái phép rừng sản xuất là rừng tự nhiên từ 10 mét khối (m
3) đến dưới 20 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 07 mét khối (m
3) đến dưới 15 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
c) Khai thác trái phép rừng phòng hộ là rừng trồng từ 15 mét khối (m
3) đến dưới 30 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 10 mét khối (m
3) đến dưới 20 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
d) Khai thác trái phép rừng phòng hộ là rừng tự nhiên từ 07 mét khối (m
3) đến dưới 15 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 05 mét khối (m
3) đến dưới 10 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
đ) Khai thác trái phép rừng đặc dụng là rừng trồng từ 10 mét khối (m
3) đến dưới 20 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 05 mét khối (m
3) đến dưới 10 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
e) Khai thác trái phép rừng đặc dụng là rừng tự nhiên từ 03 mét khối (m
3) đến dưới 08 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 01 mét khối (m
3) đến dưới 03 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
g) Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; thực vật rừng thông thường ngoài gỗ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
h) Khai thác trái phép gỗ thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA từ 01 mét khối (m
3) đến dưới 02 mét khối (m
3) tại rừng sản xuất, từ 0,5 mét khối (m
3) đến dưới 1,5 mét khối (m
3) tại rừng phòng hộ hoặc từ 0,5 mét khối (m
3) đến dưới 01 mét khối (m
3) tại rừng đặc dụng;
i) Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 60.000.000 đồng;
k) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép từ 1,5 mét khối (m
3) đến dưới 03 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; từ 10 mét khối (m
3) đến dưới 20 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; từ 20 mét khối (m
3) đến dưới 40 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật rừng thông thường;
l) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép loài thực vật rừng ngoài gỗ trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 600.000.000 đồng;
m) Khai thác, tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép gỗ hoặc thực vật rừng ngoài gỗ có khối lượng hoặc trị giá dưới mức quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm l khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”
+ Điều luật đã phân khoản 2 Điều 175 BLHS năm 1999 thành 02 khoản, khoản 2 đã cụ thể hóa trường hợp rất nghiêm trọng là một trong các trường hợp sau đây:
“a) Khai thác trái phép rừng sản xuất là rừng trồng từ 40 mét khối (m
3) đến dưới 80 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 30 mét khối (m
3) đến dưới 50 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
b) Khai thác trái phép rừng sản xuất là rừng tự nhiên từ 20 mét khối (m
3) đến dưới 40 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 15 mét khối (m
3) đến dưới 30 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
c) Khai thác trái phép rừng phòng hộ là rừng trồng từ 30 mét khối (m
3) đến dưới 60 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 20 mét khối (m
3) đến dưới 40 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
d) Khai thác trái phép rừng phòng hộ là rừng tự nhiên từ 15 mét khối (m
3) đến dưới 30 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 10 mét khối (m
3) đến dưới 20 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
đ) Khai thác trái phép rừng đặc dụng là rừng trồng từ 20 mét khối (m
3) đến dưới 40 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 10 mét khối (m
3) đến dưới 20 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
e) Khai thác trái phép rừng đặc dụng là rừng tự nhiên từ 08 mét khối (m
3) đến dưới 15 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật thông thường hoặc từ 03 mét khối (m
3) đến dưới 10 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
g) Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; thực vật rừng thông thường ngoài gỗ trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 400.000.000 đồng;
h) Khai thác trái phép gỗ thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA từ 02 mét khối (m
3) đến dưới 04 mét khối (m
3) tại rừng sản xuất, từ 1,5 mét khối (m
3) đến dưới 03 mét khối (m
3) tại rừng phòng hộ hoặc từ 01 mét khối (m
3) đến dưới 02 mét khối (m
3) tại rừng đặc dụng;
i) Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA trị giá từ 60.000.000 đồng đến dưới 120.000.000 đồng;
k) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép từ 03 mét khối (m
3) đến dưới 06 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; từ 20 mét khối (m
3) đến dưới 40 mét khối (m
3) gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; từ 40 mét khối (m
3) đến dưới 80 mét khối (m
3) gỗ loài thực vật rừng thông thường;
l) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép loài thực vật rừng ngoài gỗ trị giá từ 600.000.000 đồng đến dưới 1.200.000.000 đồng”.
+ Khoản 3 Điều luật đã cụ thể hóa trường hợp đặc biệt nghiêm trọng là một trong các trường hợp sau đây:
“a) Khai thác trái phép rừng sản xuất là rừng trồng 80 mét khối (m
3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường hoặc 50 mét khối (m
3) trở lên gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
b) Khai thác trái phép rừng sản xuất là rừng tự nhiên 40 mét khối (m
3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường hoặc 30 mét khối (m
3) trở lên gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
c) Khai thác trái phép rừng phòng hộ là rừng trồng 60 mét khối (m
3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường hoặc 40 mét khối (m
3) trở lên gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
d) Khai thác trái phép rừng phòng hộ là rừng tự nhiên 30 mét khối (m
3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường hoặc 20 mét khối (m
3) trở lên gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
đ) Khai thác trái phép rừng đặc dụng là rừng trồng 40 mét khối (m
3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường hoặc 20 mét khối (m
3) trở lên gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
e) Khai thác trái phép rừng đặc dụng là rừng tự nhiên 15 mét khối (m
3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường hoặc 10 mét khối (m
3) trở lên gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
g) Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA trị giá 200.000.000 đồng trở lên; thực vật rừng thông thường ngoài gỗ trị giá 400.000.000 đồng trở lên;
h) Khai thác trái phép gỗ thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA 04 mét khối (m
3) trở lên tại rừng sản xuất, 03 mét khối (m
3) trở lên tại rừng phòng hộ hoặc 02 mét khối (m
3) trở lên tại rừng đặc dụng;
i) Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA trị giá 120.000.000 đồng trở lên;
k) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép 06 mét khối (m
3) trở lên gỗ thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; 40 mét khối (m
3) trở lên gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; 80 mét khối (m
3) trở lên gỗ loài thực vật rừng thông thường;
l) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép loài thực vật rừng ngoài gỗ trị giá 1.200.000.000 đồng trở lên”.
+ Khoản 5 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
- Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (Điều 233)
+ Khoản 1 Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” là thực hiện một trong các hành vi sau đây:
“a) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 20.000 mét vuông (m
2) đến dưới 25.000 mét vuông (m
2) đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m
2) đến dưới 20.000 mét vuông (m
2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 10.000 mét vuông (m
2) đến dưới 15.000 mét vuông (m
2) đối với rừng đặc dụng;
b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 10.000 mét vuông (m
2) đến dưới 12.500 mét vuông (m
2) đối với rừng sản xuất; từ 7.500 mét vuông (m
2) đến dưới 10.000 mét vuông (m
2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 5.000 mét vuông (m
2) đến dưới 7.500 mét vuông (m
2) đối với rừng đặc dụng;
c) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này;
d) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật dưới mức quy định tại điểm a, điểm b khoản này và các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này nhưng đã bị xử lý kỷ luật về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm”.
+ Khoản 2 Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” là một trong các trường hợp sau:
“c) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 25.000 mét vuông (m
2) đến dưới 40.000 mét vuông (m
2) đối với rừng sản xuất; từ 20.000 mét vuông (m
2) đến dưới 30.000 mét vuông (m
2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 15.000 mét vuông (m
2) đến dưới 25.000 mét vuông (m
2) đối với rừng đặc dụng;
d) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 12.500 mét vuông (m
2) đến dưới 17.000 mét vuông (m
2) đối với rừng sản xuất; từ 10.000 mét vuông (m
2) đến dưới 15.000 mét vuông (m
2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 7.500 mét vuông (m
2) đến dưới 12.000 mét vuông (m
2) đối với rừng đặc dụng;
đ) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 2 Điều 232 của Bộ luật này”.
+ Khoản 3 Điều luật đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” là một trong các trường hợp sau:
“a) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật 40.000 mét vuông (m
2) trở lên đối với rừng sản xuất; 30.000 mét vuông (m
2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc 25.000 mét vuông (m
2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật 17.000 mét vuông (m
2) trở lên đối với rừng sản xuất; 15.000 mét vuông (m
2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc 12.000 mét vuông (m
2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
c) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 232 của Bộ luật này”.
- Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234)
+ Đây là tội danh mới được bổ sung nhằm thực hiện đầy đủ các khuyến nghị của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều luật có 06 khoản, khoản 1 là cấu thành cơ bản quy định về việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây:
“a) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc động vật hoang dã khác trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 700.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
b) Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc của động vật hoang dã khác trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 700.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
c) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật thu lợi bất chính hoặc trị giá dưới mức quy định tại điểm a, điểm b khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”.
+ Khoản 2 quy định về cấu thành định khung tăng nặng gồm các tình tiết: “Có tổ chức”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”, “Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức”, “Sử dụng công cụ hoặc phương tiện săn bắt bị cấm”, “Săn bắt trong khu vực bị cấm hoặc vào thời gian bị cấm”, “Vận chuyển, buôn bán qua biên giới”, “Động vật, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc của động vật hoang dã khác trị giá từ 700.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng”, “Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”, “Tái phạm nguy hiểm”.
+ Khoản 3 quy định về cấu thành định khung tăng nặng, với các tình tiết: “Động vật, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc của động vật hoang dã khác trị giá 1.500.000.000 đồng trở lên”, “Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên”.
+ Khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
+ Khoản 5 quy định về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này.
- Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp (Điều 217a)
Điều luật được chia thành 3 khoản:
Khoản 1 quy định việc xử lý hình sự đối với người tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hoặc không đúng với nội dung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 174 và Điều 290 của Bộ luật này:
“a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
c) Gây thiệt hại cho người khác từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.”
Khoản 2 quy định các tình tiết định khung tăng nặng “Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên”, “Gây thiệt hại cho người khác 1.500.000.000 đồng trở lên”, “Quy mô mạng lưới người tham gia 100 người trở lên”.
Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung
Về hình phạt: khoản 1 quy định phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm; khoản 2 quy định phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; khoản 3 quy định hình phạt bổ sung phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.