Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người đối với bị can khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự
- Thứ ba - 12/10/2021 17:10
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con người (QCN) bắt nguồn sâu xa từ lịch sử, không ngừng được bổ sung hoàn thiện và đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị để chỉ dẫn cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển quyền con người của chúng ta. Trụ cột có tính chất pháp lý quan trọng khẳng định các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam thể hiện cô đọng trong Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo được công bố trước quốc dân đồng bào và thế giới ngày 2-9-1945, trong bản tuyên ngôn đó là: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[1]. QCN trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc mà còn bao gồm cả quyền làm chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được pháp luật bảo vệ, quyền đi lại, quyền cư trú, quyền công dân, quyền hôn nhân và xây dựng gia đình, quyền sỡ hữu tài sản,… Với quan điểm đó nên cả cuộc đời Người đấu tranh vì thực hiện quyền con người.
Nhận thức được tầm quan trọng của QCN trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Các Văn kiện của Đảng, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Nghị quyết các Đại hội của Đảng và trực tiếp là các Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12/7/1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg, ngày 2/12/2004, của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đã đặt ra nhiệm vụ:“Xây dựng nên tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, QCN”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ QCN”.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “QCN” đã trở thành tên gọi của một “Chương” cụ thể, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó. Việc bổ sung cụm từ “QCN” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đây không chỉ đơn thuần là sự bổ sung một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh tư duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân loại. Cùng đó, xóa bỏ ranh giới còn chưa rõ ràng giữa khái niệm về QCN và quyền công dân (QCN là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch Việt Nam), ghi nhận việc mở rộng các chủ thể của quyền, khẳng định chủ thể rộng nhất của QCN là mọi cá nhân, mọi người đều được hưởng.
QCN là một trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm hơn nữa trong việc xây dựng pháp luật bảo vệ QCN. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Đòi hỏi công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật là chỗ dựa cho nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ QCN [2].Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục thiết lập vững chắc hành lang pháp lý về QCN“Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ QCN, quyền công dân”[3].
Tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định[4]: “VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ QCN, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Cụ thể hóa quy định tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp, Điều 2 Luật Tổ chức VKSND quy định: “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ QCN, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.[5]
Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra (THQCT, KSĐT) trong tố tụng hình sự là một trong những hoạt động của Viện Kiểm sát khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động này mang tính chất xuyên suốt trong quá trình tố tụng hình sự về bảo vệ QCN của bị can. Hoạt động THQCT, KSĐT không chỉ thực hiện quyền phê chuẩn, yêu cầu, kiến nghị, hoặc hủy bỏ đối với các quyết định của cơ quan điều tra không có căn cứ, trái pháp luật mà mục tiêu đặt lên trước hết, trên hết là bảo vệ QCN, dù cho họ với tư cách là “bị can”.
Thuật ngữ “Bị can”được sử dụng và ngày càng nhận thức đầy đủ hơn cùng với sự hoàn thiện của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hiện nay, theo khoản 1 Điều 60 BLTTHS 2015 quy định:“Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”[6].
Thông qua các hoạt động tố tụng hình sự, VKSND mà chủ thể trực tiếp là Kiểm sát viên, người có chức danh tư pháp tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ QCN của bị can trong hoạt THQCT, KSĐT vụ án hình sự được Điều tra viên tiến hành điều tra. Việc bảo đảm QCN của bị can phải trên cơ sở quy định của BLTTHS, bảo đảm các quyền của bị can đã được quy định phải được Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bảo đảm cho bị can được quyền hưởng.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu:“Bảo đảm quyền của bị can trong THQCT, KSĐT là nhiệm vụ của Viện kiểm sát, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng, bảo đảm được tất cả các quyền của bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”.
Ngay tại Điều đầu tiên của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS) đã khẳng định nhiệm vụ pháp lý của BLHS trong đó có nhiệm vụ thiêng liêng là bảo vệ QCN, cụ thể“Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự.[7] Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, QCN, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.
Có thể nói, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa nhiều nội dung quy định của Hiến pháp năm 2013 về QCN, quyền công dân, bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đối với người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị buộc tội bổ sung nhiều quyền để giúp họ có điều kiện được bào chữa, cũng như bảo đảm quyền của họ trong Tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, Bộ luật này đã xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ QCN, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân; quy định chặt chẽ và kiểm soát nghiêm ngặt việc áp dụng các biện pháp hạn chế QCN, quyền công dân, cụ thể tại Điều 2 Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự quy định[6]: “Bộ luật tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,…”.
Điều 8“Tôn trọng và bảo vệ QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân[6]Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân…”
Để thực hiện được các hoạt động tố tụng hình sự đòi hỏi phải có Cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó phải có những chủ thể đặc biệt là người tiến hành tố tụng, cụ thể được quy định tại Điều 34.“Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng[6]
1. Cơ quan tiến hành tố tụng gồm:
a) Cơ quan điều tra;
b) Viện kiểm sát;
c) Tòa án.
2. Người tiến hành tố tụng gồm:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên;
c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên”.
Như vậy, có thể khẳng định VKSND là Cơ quan tiến hành tố tụng và các hoạt động thực hiện chức năng của cơ quan này được biểu hiện cụ thể thông qua các hoạt động của chủ thể tiến hành tố tụng là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên. Với chức danh tư pháp, họ phải tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, biện pháp cụ thể để hoàn thành sứ mệnh lịch sử, nhiệm vụ chính trị của ngành Kiểm sát nhân dân, trong đó có bảo vệ QCN trong tố tụng hình sự.
Biểu hiện cụ thể về quyền con người của bị can được cô đọng lại và quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 60 BLTTHS thì bị can có quyền[6]:
Được biết lý do mình bị khởi tố; Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đây chính là những quyền của bị can, tuy nhiên thực tiễn hoạt động điều tra từng lúc có thể xảy ra hiện tượng Cơ quan điều tra không đảm bảo đầy đủ, thực hiện qua loa, chiếu lệ đối với các quyền này dành cho bị can. Hiến pháp, BLTTHS, Luật Tổ chức VKSND trao cho VKSND với vị trí là một cơ quan độc lập, chỉ tuân thủ theo pháp luật để kiểm sát việc bảo đảm các quyền của bị can đó chính là đảm bảo QCN của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Kiểm sát viên đặc biệt lưu ý yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành trưng cầu người bào chữa cho bị can thuộc các trường hợp quy định tại Điều 76 BLTTHS [6]quy định các trường hợp chỉ định người bào chữa cụ thể:“Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ: Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi”.
Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP về việc tiến hành hỏi cung phải thực hiện việc ghi âm, ghi hình có âm thanh[8] có hiệu lực từ ngày 18/3/2018 thì Kiểm sát viên trước khi dự kiểm sát buổi hỏicung của Điều tra viên phải yêu cầu điều tra viên tuân thủ nghiêm túc, kiểm tra việc sắp xếp, bố trí việc ghi âm, ghi hình. Đây là biện pháp rất hiệu quả nhằm tránh hiện tượng bị can chối tội và đặc biệt là biện pháp quan sát hiệu quả để đảm bảo QCN của bị can không bị xâm phạm, không xảy ra hiện tượng bức cung, móm cung, nhục hình,… vì quá trình hỏi cung luôn có Kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát dưới sự ghi âm, ghi hình rõ ràng.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Ngành thì sự lãnh đạo Đảng, giám sát Hội đồng nhân dân là cần thiết và bắt buộc. Chỉ thị số 26-CT, ngày 9/11/2018 của Bộ Chính trị [9]về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc và Hướng dẫn số 04-HD/TW, ngày 09/12/2020 [10]của Ban Bí thư về thực hiện Chỉ thị số 26, tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Ngành.
Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn đối với VKSND ngày càng đầy đủ, chặt chẽ. Đây là công cụ pháp lý hiệu quả để Viện kiểm sát hoàn thành chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Hằng năm, trên cơ sở Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, kế hoạch công tác kiểm sát của Viện trưởng VKSND tỉnh, VKSND cấp huyện ban hành kế hoạch công tác kiểm sát của đơn vị, của từng khâu, bộ phận công tác, kịp thời phát động phong trào thi đua, bảo đảm các vụ án được kiểm sát viên THQCT, KSĐT đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và bảo đảm QCN của bị can trong hoạt động tố tụng. Những năm qua, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kịp thời phát động đến toàn thể Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ chính trị kết hợp với các đợt thi đua như “Thi đua lập thành tích thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”, “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.Qua thực hiện nhiệm vụ, các cá nhân có những giải pháp áp dụng thực hiện nhiệm vụ phù hợp và kết quả đạt và vượt nhiều chỉ tiêu của từng năm.
Niềm tin của quần chúng nhân dân vào vai trò của ngành Kiểm sát nhân dân ngày càng được nâng lên, ý thức của nhân dân về việc cùng đảng, cơ quan chức năng phòng, chống tội phạm được quan tâm hơn. Việc người dân đến VKSND để thông tin về nguồn tin, tố giác tội phạm đã thể hiện rõ việc người dân hiểu hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Kiểm sát trong công cuộc bảo vệ QCN nói chung và QCN của bị can nói riêng.
VKSND và các Cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan ngày càng nhận thức và hoạt động quyết liệt hơn trong nhiệm vụ bảo đảm QCN của bị can. Trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ của các kiểm sát viên tương đối đồng đều; nắm được các vấn đề cốt lõi của Hiến pháp, BLHS, các quy định của BLTTHS về bảo vệ QCN và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Các kiểm sát viên luôn tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc như: thực hành quyển công tố, kiểm sát điều tra độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không chịu sự tác động từ các yếu tố bên ngoài; tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên đối với việc giải quyết vụ án phải được kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ, yêu cầu thay đổi điều tra viên, yêu cầu hủy bỏ ngay các quyết định không đúng quy định pháp luật, vi phạm QCN của bị can; bảo đảm quyền bào chữa của bị can (có thể bị can tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa hoặc trường hợp được chỉ định người bào chữa thì phải tiến hành trưng cầu người bào chữa cho bị can ngay khi có căn cứ).
Để thực hiện chức năng THQCT, KSĐT vụ án hình sự, đòi hỏi Kiểm sát viên phải có bản lĩnh, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật vững chắc để nắm được tiến độ điều tra của điều tra viên, kịp thời yêu cầu thay đổi điều tra viên nếu có căn cứ cho rằng điều tra viên không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, có dấu hiệu bức cung, dụ cung, nhục hình,..., yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu người bào chữa khi thuộc trường hợp phải trưng cầu. Trường hợp xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên sẽ trực tiếp gặp hỏi người bị giữ khẩn cấp, người bị tạm giữ về những nội dung liên quan trước khi tham mưu Lãnh đạo Viện ký các quyết định phê chuẩn đối với các Quyết định, Lệnh của Cơ quan điều tra.
Ngoài chuyên môn nghiệp vụ, Kiểm sát viên phải là những cá nhân có tâm huyết, cái tâm trong sáng và đạo đức nghề nghiệp, đảm bảo hài hòa giữa lý và tình người, lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng với cái đầu lạnh và trái tim nóng. Thực hiện nhiệm vụ trên cả phương diện pháp luật chan hòa với cái tình người trong các quy định nhân đạo của pháp luật, không rập khuôn mà luôn có sự sáng tạo, vận dụng trong khuôn khổ pháp luật. Sau khi được phân công THQCT, KSĐT đối với vụ án, kiểm sát viên chủ động, dành nhiều thời gian tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình bị can, nguyên nhân, động cơ, mục đích thực hiện hành vi phạm tội, nắm bắt tâm lý bị can, xem xét bị can thuộc trường hợp được cử người bào chữa theo quy định của pháp luật, tìm hiểu văn hóa dân tộc,.... Kiểm sát viên phải là người chủ động trong việc trao đổi, đề ra các yêu cầu điều tra để điều tra viên thực hiện, đảm bảo đủ căn cứ cho việc buộc tội, đồng thời yêu cầu điều tra viên xác định về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 BLHS[7] như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; có cha mẹ là người có công với cách mạng,… kịp thời nắm bắt được lý lịch bị can là một trong những biện pháp giúp kiểm sát viên xác định đúng đắn phương pháp làm việc đối với bị can mang lại hiệu quả cao nhất, đồng thời cân nhắc nghiên cứu tham mưu Lãnh đạo viện về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các tình tiết giảm nhẹ để bị cáo được giảm hình phạt sớm được tái hòa nhâp cộng đồng. Phát huy được những tố chất quan trọng của người Kiểm sát viên sẽ mang lại những hiệu quả tích cực trong quá trình THQCT, KSĐT vụ án hình sự.
QCN không chỉ là giá trị tinh thần cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc tự nhiên lâu đời trong quá trình phát triển của lịch sử mà nó còn là khát vọng, ước mơ và lý tưởng của các dân tộc trong cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ để chống lại chế độ bất công và tàn bạo, chuyên chế và độc quyền. QCN đã được xác lập và ghi nhận trong nhiều văn kiện, điều ước quốc tế. Từ lý luận đến thực tiễn về QCN luôn là một chủ đề “nóng” và được quan tâm hàng đầu ở các quốc gia, châu lục. QCN được bảo đảm thực hiện trong thực tiễn cuộc sống là thước đo của nền dân chủ, văn minh và tiến bộ xã hội.
Ở nước ta, QCN được trang trọng ghi nhận vào Hiến pháp, đạo luật gốc của các đạo luật. Đảng và nhà nước ta luôn xác định QCN có giá trị đặc biệt trong đời sống xã hội, thể hiện bản chất xã hội chủ nghĩa và là kim chỉ nam cho việc định hướng, xây dựng hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức VKSND 2014, BLHS, BLTTHS đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về việc bảo đảm QCN, trong đó có QCN của bị can. VKSND có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp được trao nhiệm vụ phải bảo đảm QCN ở nhiều gốc độ, nhiều lĩnh vực như: hình sự, dân sự, thi hành án hình sự,... Trong phạm vi bài viết, người viết chỉ trình bày ở gốc độ mà VKSND, kiểm sát viên được trao nhiệm vụ, quyền hạn là THQCT, KSĐT vụ án hình sự. Trong hoạt động THQCT, KSĐT vụ án hình sự, kiểm sát viên đã thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của mình để đảm bảo QCN cho bị can, bởi lẽ sự xâm phạm QCN trong giai đoạn này sẽ để lại hậu quả rất nặng nề, đó là ảnh hưởng đến quyền sống, quyền tự do của con người. Vì vậy, vấn đề bảo đảm QCN của bị can trong giai đoạn THQCTlà một đòi hỏi tất yếu, khách quan đối với việc thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát nhân dân.
Để thực hiện tốt vai trò bảo vệ, bảo đảm QCN của bị can, VKSND mà chủ thể trực tiếp tiến hành các hoạt động tố tụng là kiểm sát viên cần phải chấp hành nghiêm đường lối, chính sách của Đảng đã định hướng: Xây dựng cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất; bảo vệ QCN, đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp. Từ đó, bảo đảm pháp luật được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng, góp phần mang lại sự công bằng xã hội, bảo đảm QCN, quyền lợi ích hợp pháp của người dân và Nhà nước ta trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xây dựng hình ảnh người cán bộ kiểm sát “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng” trong lòng nhân dân như Bác Hồ kỳ vọng./.
Tài liệu tham khảo
Nhận thức được tầm quan trọng của QCN trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Các Văn kiện của Đảng, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Nghị quyết các Đại hội của Đảng và trực tiếp là các Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12/7/1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg, ngày 2/12/2004, của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đã đặt ra nhiệm vụ:“Xây dựng nên tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, QCN”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ QCN”.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “QCN” đã trở thành tên gọi của một “Chương” cụ thể, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó. Việc bổ sung cụm từ “QCN” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đây không chỉ đơn thuần là sự bổ sung một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh tư duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân loại. Cùng đó, xóa bỏ ranh giới còn chưa rõ ràng giữa khái niệm về QCN và quyền công dân (QCN là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch Việt Nam), ghi nhận việc mở rộng các chủ thể của quyền, khẳng định chủ thể rộng nhất của QCN là mọi cá nhân, mọi người đều được hưởng.
QCN là một trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm hơn nữa trong việc xây dựng pháp luật bảo vệ QCN. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Đòi hỏi công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật là chỗ dựa cho nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ QCN [2].Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục thiết lập vững chắc hành lang pháp lý về QCN“Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ QCN, quyền công dân”[3].
Tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định[4]: “VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ QCN, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Cụ thể hóa quy định tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp, Điều 2 Luật Tổ chức VKSND quy định: “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ QCN, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.[5]
Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra (THQCT, KSĐT) trong tố tụng hình sự là một trong những hoạt động của Viện Kiểm sát khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động này mang tính chất xuyên suốt trong quá trình tố tụng hình sự về bảo vệ QCN của bị can. Hoạt động THQCT, KSĐT không chỉ thực hiện quyền phê chuẩn, yêu cầu, kiến nghị, hoặc hủy bỏ đối với các quyết định của cơ quan điều tra không có căn cứ, trái pháp luật mà mục tiêu đặt lên trước hết, trên hết là bảo vệ QCN, dù cho họ với tư cách là “bị can”.
Thuật ngữ “Bị can”được sử dụng và ngày càng nhận thức đầy đủ hơn cùng với sự hoàn thiện của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hiện nay, theo khoản 1 Điều 60 BLTTHS 2015 quy định:“Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”[6].
Thông qua các hoạt động tố tụng hình sự, VKSND mà chủ thể trực tiếp là Kiểm sát viên, người có chức danh tư pháp tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ QCN của bị can trong hoạt THQCT, KSĐT vụ án hình sự được Điều tra viên tiến hành điều tra. Việc bảo đảm QCN của bị can phải trên cơ sở quy định của BLTTHS, bảo đảm các quyền của bị can đã được quy định phải được Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bảo đảm cho bị can được quyền hưởng.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu:“Bảo đảm quyền của bị can trong THQCT, KSĐT là nhiệm vụ của Viện kiểm sát, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng, bảo đảm được tất cả các quyền của bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”.
Ngay tại Điều đầu tiên của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS) đã khẳng định nhiệm vụ pháp lý của BLHS trong đó có nhiệm vụ thiêng liêng là bảo vệ QCN, cụ thể“Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự.[7] Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, QCN, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.
Có thể nói, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa nhiều nội dung quy định của Hiến pháp năm 2013 về QCN, quyền công dân, bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đối với người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị buộc tội bổ sung nhiều quyền để giúp họ có điều kiện được bào chữa, cũng như bảo đảm quyền của họ trong Tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, Bộ luật này đã xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ QCN, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân; quy định chặt chẽ và kiểm soát nghiêm ngặt việc áp dụng các biện pháp hạn chế QCN, quyền công dân, cụ thể tại Điều 2 Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự quy định[6]: “Bộ luật tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,…”.
Điều 8“Tôn trọng và bảo vệ QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân[6]Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân…”
Để thực hiện được các hoạt động tố tụng hình sự đòi hỏi phải có Cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó phải có những chủ thể đặc biệt là người tiến hành tố tụng, cụ thể được quy định tại Điều 34.“Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng[6]
1. Cơ quan tiến hành tố tụng gồm:
a) Cơ quan điều tra;
b) Viện kiểm sát;
c) Tòa án.
2. Người tiến hành tố tụng gồm:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên;
c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên”.
Như vậy, có thể khẳng định VKSND là Cơ quan tiến hành tố tụng và các hoạt động thực hiện chức năng của cơ quan này được biểu hiện cụ thể thông qua các hoạt động của chủ thể tiến hành tố tụng là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên. Với chức danh tư pháp, họ phải tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, biện pháp cụ thể để hoàn thành sứ mệnh lịch sử, nhiệm vụ chính trị của ngành Kiểm sát nhân dân, trong đó có bảo vệ QCN trong tố tụng hình sự.
Biểu hiện cụ thể về quyền con người của bị can được cô đọng lại và quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 60 BLTTHS thì bị can có quyền[6]:
Được biết lý do mình bị khởi tố; Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đây chính là những quyền của bị can, tuy nhiên thực tiễn hoạt động điều tra từng lúc có thể xảy ra hiện tượng Cơ quan điều tra không đảm bảo đầy đủ, thực hiện qua loa, chiếu lệ đối với các quyền này dành cho bị can. Hiến pháp, BLTTHS, Luật Tổ chức VKSND trao cho VKSND với vị trí là một cơ quan độc lập, chỉ tuân thủ theo pháp luật để kiểm sát việc bảo đảm các quyền của bị can đó chính là đảm bảo QCN của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Kiểm sát viên đặc biệt lưu ý yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành trưng cầu người bào chữa cho bị can thuộc các trường hợp quy định tại Điều 76 BLTTHS [6]quy định các trường hợp chỉ định người bào chữa cụ thể:“Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ: Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi”.
Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP về việc tiến hành hỏi cung phải thực hiện việc ghi âm, ghi hình có âm thanh[8] có hiệu lực từ ngày 18/3/2018 thì Kiểm sát viên trước khi dự kiểm sát buổi hỏicung của Điều tra viên phải yêu cầu điều tra viên tuân thủ nghiêm túc, kiểm tra việc sắp xếp, bố trí việc ghi âm, ghi hình. Đây là biện pháp rất hiệu quả nhằm tránh hiện tượng bị can chối tội và đặc biệt là biện pháp quan sát hiệu quả để đảm bảo QCN của bị can không bị xâm phạm, không xảy ra hiện tượng bức cung, móm cung, nhục hình,… vì quá trình hỏi cung luôn có Kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát dưới sự ghi âm, ghi hình rõ ràng.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Ngành thì sự lãnh đạo Đảng, giám sát Hội đồng nhân dân là cần thiết và bắt buộc. Chỉ thị số 26-CT, ngày 9/11/2018 của Bộ Chính trị [9]về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc và Hướng dẫn số 04-HD/TW, ngày 09/12/2020 [10]của Ban Bí thư về thực hiện Chỉ thị số 26, tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Ngành.
Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn đối với VKSND ngày càng đầy đủ, chặt chẽ. Đây là công cụ pháp lý hiệu quả để Viện kiểm sát hoàn thành chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Hằng năm, trên cơ sở Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, kế hoạch công tác kiểm sát của Viện trưởng VKSND tỉnh, VKSND cấp huyện ban hành kế hoạch công tác kiểm sát của đơn vị, của từng khâu, bộ phận công tác, kịp thời phát động phong trào thi đua, bảo đảm các vụ án được kiểm sát viên THQCT, KSĐT đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và bảo đảm QCN của bị can trong hoạt động tố tụng. Những năm qua, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kịp thời phát động đến toàn thể Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ chính trị kết hợp với các đợt thi đua như “Thi đua lập thành tích thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”, “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.Qua thực hiện nhiệm vụ, các cá nhân có những giải pháp áp dụng thực hiện nhiệm vụ phù hợp và kết quả đạt và vượt nhiều chỉ tiêu của từng năm.
Niềm tin của quần chúng nhân dân vào vai trò của ngành Kiểm sát nhân dân ngày càng được nâng lên, ý thức của nhân dân về việc cùng đảng, cơ quan chức năng phòng, chống tội phạm được quan tâm hơn. Việc người dân đến VKSND để thông tin về nguồn tin, tố giác tội phạm đã thể hiện rõ việc người dân hiểu hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Kiểm sát trong công cuộc bảo vệ QCN nói chung và QCN của bị can nói riêng.
VKSND và các Cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan ngày càng nhận thức và hoạt động quyết liệt hơn trong nhiệm vụ bảo đảm QCN của bị can. Trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ của các kiểm sát viên tương đối đồng đều; nắm được các vấn đề cốt lõi của Hiến pháp, BLHS, các quy định của BLTTHS về bảo vệ QCN và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Các kiểm sát viên luôn tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc như: thực hành quyển công tố, kiểm sát điều tra độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không chịu sự tác động từ các yếu tố bên ngoài; tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên đối với việc giải quyết vụ án phải được kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ, yêu cầu thay đổi điều tra viên, yêu cầu hủy bỏ ngay các quyết định không đúng quy định pháp luật, vi phạm QCN của bị can; bảo đảm quyền bào chữa của bị can (có thể bị can tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa hoặc trường hợp được chỉ định người bào chữa thì phải tiến hành trưng cầu người bào chữa cho bị can ngay khi có căn cứ).
Để thực hiện chức năng THQCT, KSĐT vụ án hình sự, đòi hỏi Kiểm sát viên phải có bản lĩnh, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật vững chắc để nắm được tiến độ điều tra của điều tra viên, kịp thời yêu cầu thay đổi điều tra viên nếu có căn cứ cho rằng điều tra viên không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, có dấu hiệu bức cung, dụ cung, nhục hình,..., yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu người bào chữa khi thuộc trường hợp phải trưng cầu. Trường hợp xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên sẽ trực tiếp gặp hỏi người bị giữ khẩn cấp, người bị tạm giữ về những nội dung liên quan trước khi tham mưu Lãnh đạo Viện ký các quyết định phê chuẩn đối với các Quyết định, Lệnh của Cơ quan điều tra.
Ngoài chuyên môn nghiệp vụ, Kiểm sát viên phải là những cá nhân có tâm huyết, cái tâm trong sáng và đạo đức nghề nghiệp, đảm bảo hài hòa giữa lý và tình người, lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng với cái đầu lạnh và trái tim nóng. Thực hiện nhiệm vụ trên cả phương diện pháp luật chan hòa với cái tình người trong các quy định nhân đạo của pháp luật, không rập khuôn mà luôn có sự sáng tạo, vận dụng trong khuôn khổ pháp luật. Sau khi được phân công THQCT, KSĐT đối với vụ án, kiểm sát viên chủ động, dành nhiều thời gian tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình bị can, nguyên nhân, động cơ, mục đích thực hiện hành vi phạm tội, nắm bắt tâm lý bị can, xem xét bị can thuộc trường hợp được cử người bào chữa theo quy định của pháp luật, tìm hiểu văn hóa dân tộc,.... Kiểm sát viên phải là người chủ động trong việc trao đổi, đề ra các yêu cầu điều tra để điều tra viên thực hiện, đảm bảo đủ căn cứ cho việc buộc tội, đồng thời yêu cầu điều tra viên xác định về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 BLHS[7] như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; có cha mẹ là người có công với cách mạng,… kịp thời nắm bắt được lý lịch bị can là một trong những biện pháp giúp kiểm sát viên xác định đúng đắn phương pháp làm việc đối với bị can mang lại hiệu quả cao nhất, đồng thời cân nhắc nghiên cứu tham mưu Lãnh đạo viện về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các tình tiết giảm nhẹ để bị cáo được giảm hình phạt sớm được tái hòa nhâp cộng đồng. Phát huy được những tố chất quan trọng của người Kiểm sát viên sẽ mang lại những hiệu quả tích cực trong quá trình THQCT, KSĐT vụ án hình sự.
QCN không chỉ là giá trị tinh thần cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc tự nhiên lâu đời trong quá trình phát triển của lịch sử mà nó còn là khát vọng, ước mơ và lý tưởng của các dân tộc trong cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ để chống lại chế độ bất công và tàn bạo, chuyên chế và độc quyền. QCN đã được xác lập và ghi nhận trong nhiều văn kiện, điều ước quốc tế. Từ lý luận đến thực tiễn về QCN luôn là một chủ đề “nóng” và được quan tâm hàng đầu ở các quốc gia, châu lục. QCN được bảo đảm thực hiện trong thực tiễn cuộc sống là thước đo của nền dân chủ, văn minh và tiến bộ xã hội.
Ở nước ta, QCN được trang trọng ghi nhận vào Hiến pháp, đạo luật gốc của các đạo luật. Đảng và nhà nước ta luôn xác định QCN có giá trị đặc biệt trong đời sống xã hội, thể hiện bản chất xã hội chủ nghĩa và là kim chỉ nam cho việc định hướng, xây dựng hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức VKSND 2014, BLHS, BLTTHS đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về việc bảo đảm QCN, trong đó có QCN của bị can. VKSND có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp được trao nhiệm vụ phải bảo đảm QCN ở nhiều gốc độ, nhiều lĩnh vực như: hình sự, dân sự, thi hành án hình sự,... Trong phạm vi bài viết, người viết chỉ trình bày ở gốc độ mà VKSND, kiểm sát viên được trao nhiệm vụ, quyền hạn là THQCT, KSĐT vụ án hình sự. Trong hoạt động THQCT, KSĐT vụ án hình sự, kiểm sát viên đã thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của mình để đảm bảo QCN cho bị can, bởi lẽ sự xâm phạm QCN trong giai đoạn này sẽ để lại hậu quả rất nặng nề, đó là ảnh hưởng đến quyền sống, quyền tự do của con người. Vì vậy, vấn đề bảo đảm QCN của bị can trong giai đoạn THQCTlà một đòi hỏi tất yếu, khách quan đối với việc thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát nhân dân.
Để thực hiện tốt vai trò bảo vệ, bảo đảm QCN của bị can, VKSND mà chủ thể trực tiếp tiến hành các hoạt động tố tụng là kiểm sát viên cần phải chấp hành nghiêm đường lối, chính sách của Đảng đã định hướng: Xây dựng cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất; bảo vệ QCN, đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp. Từ đó, bảo đảm pháp luật được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng, góp phần mang lại sự công bằng xã hội, bảo đảm QCN, quyền lợi ích hợp pháp của người dân và Nhà nước ta trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xây dựng hình ảnh người cán bộ kiểm sát “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng” trong lòng nhân dân như Bác Hồ kỳ vọng./.
Tài liệu tham khảo
- Hồ Chí Minh,Tuyên ngôn độc lập.
- Bộ Chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia.
- Quốc Hội, (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
- Quốc Hội,(2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
- Quốc Hội, (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
- Quốc Hội, (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
- Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018, HàNội.
- Ban Bí thư, Chỉ thị số 26-CT, ngày 9-11-2018 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc, Hà Nội.
- Ban Bí Thư, Hướng dẫn số 04-HD/TW, ngày 9-12-2020 của Ban Bí thư về thực hiện Chỉ thị số 26, Hà Nội.