Trong tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 vấn đề tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu được Ngành kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện. Cùng với đó là sự ra đời của Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về ”tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho thấy được tầm quan trọng của tăng cường trách nhiệm công tố với hoạt động điều tra trong giai đoạn hiện nay mà trong đó yêu cầu điều tra là một trong những hoạt động tố tụng thể hiện rõ nhất việc gắn chức năng công tố với hoạt động điều tra, thể hiện đầy đủ nhất chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của VKS trong hoạt động điều tra, góp phần đảm bảo cho việc điều tra đúng quy định của pháp luật, chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm.
Đề ra yêu cầu điều tra là một quyền năng pháp lý được trao cho Viện kiểm sát và người thực hiện là Kiểm sát viên được phân công THQCT, KSĐT vụ án để làm rõ tội phạm và người phạm tội1. Mục đích của việc đề ra yêu cầu điều tra đối với Cơ quan điều tra là làm rõ về tội phạm, người phạm tội và những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hoặc yêu cầu về mặt thủ tục tố tụng để Cơ quan điều tra sử dụng những biện pháp điều tra thu thập các chứng cứ, điều tra, chứng minh làm rõ vụ án một cách khách quan, toàn diện, tránh việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, tạo cơ sở vững chắc cho việc buộc tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Kiểm sát viên có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói trong quá trình trực tiếp kiểm sát các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương sự, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, nhận biết giọng nói. Đối với các hoạt động điều tra khác, Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản, nêu rõ ràng, cụ thể những vấn đề cần điều tra, chứng cứ, tài liệu cần thu thập2. Kiểm sát viên phải thường xuyên theo dõi, nắm chắc tiến độ điều tra vụ án, nghiên cứu kỹ các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập; kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, chủ động phối hợp với Điều tra viên để điều tra làm rõ những vấn đề cần chứng minh ngay trong giai đoạn điều tra vụ án3 .
Đây không chỉ là quyền hạn mà còn là trách nhiệm của Kiểm sát viên được phân công. Theo đó, Kiểm sát viên được phân công không đề ra yêu cầu điều tra với những vấn đề có thể phát hiện được dẫn đến Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì lãnh đạo tổ chức kiểm điểm, xác định trách nhiệm cụ thể của Kiểm sát viên liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật4 . Để có một văn bản yêu cầu điều tra có chất lượng, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, trên cơ sở những chứng cứ tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, định hướng đúng và phải có suy luận logic, không suy đoán hoặc suy diễn một cách tùy tiện dẫn đến việc đề ra yêu cầu điều tra thiếu căn cứ, gây khó khăn cho quá trình điều tra. Yêu cầu điều tra chủ yếu tập trung vào hai vấn đề là về tố tụng và vấn đề thu thập chứng cứ (chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội), bên cạnh đó có thể là các vấn đề về trách nhiệm dân sự phát sinh trong từng vụ án.
- Về vấn đề tố tụng: Việc đề ra yêu cầu điều tra về mặt tố tụng là các vấn đề liên quan đến việc đảm bảo giá trị pháp lý, giá trị chứng minh của các chứng cứ, việc ban hành và thực hiện các quyết định tố tụng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền con người, việc thực hiện các quyền của bị can hay các vấn đề xác định nhân thân, lý lịch, tiền án, tiền sự của bị can… Đây là vấn đề không thể thiếu trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, Kiểm sát viên phải bám sát quá trình điều tra, kiểm sát chặt chẽ, kỹ càng đối với những hoạt động điều tra để kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục khi có thiếu sót.
- Về chứng cứ vụ án: Kiểm sát viên yêu cầu cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp điều tra để thu thập chứng cứ trong quá trình khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; thực nghiệm điều tra; khám xét dấu vết trên thân thể; trưng cầu giám định; giám định bổ sung; giám định lại; khám xét, thu giữ đồ vật tài sản; yêu cầu lấy lời khai người tham gia tố tụng, hỏi cung bị can về những nội dung cần chứng minh, làm rõ; yêu cầu tiến hành đối chất, nhận dạng... Yêu cầu chứng minh thời gian, địa điểm, người thực hiện hành vi phạm tội, chứng minh yếu tố lỗi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự… chưa được điều tra hoặc chưa được thực hiện đầy đủ. Trong quá trình kiểm sát điều tra Kiểm sát viên phải đánh giá, kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các chứng cứ được thu thập qua đó yêu cầu chứng minh, giải quyết những mâu thuẫn giữa các chứng cứ, đồng thời định hướng điều tra, khoanh vùng đối tượng, vấn đề cần tập trung điều tra.
Trong thời gian qua, việc yêu cầu điều tra vẫn chưa phát huy hết vai trò trong giải quyết vụ án. Các yêu cầu điều tra phần nhiều được thực hiện chỉ để đảm bảo về mặt tố tụng trong hồ sơ vụ án, nội dung yêu cầu điều tra chưa đem lại tính kịp thời, chưa phát huy được tính chủ động của Kiểm sát viên. Các yêu cầu đặt ra chưa mang tính định hướng điều tra, còn chung chung; yêu cầu những nội dung mà Cơ quan điểu tra đã thực hiện. Nhiều vấn đề mâu thuẫn, thiếu sót chưa được Kiểm sát viên phát hiện để yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục.
Để hoạt động yêu cầu điều tra phát huy hết vai trò trong điều tra giải quyết vụ án thì trước hết cần phải nâng cao năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm của từng Kiểm sát viên, nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc ban hành yêu cầu điều tra và là nhiệm vụ bắt buộc trong quá trình THQCT, KSĐT; nắm bắt đầy đủ quy định pháp luật, Quy chế nghiệp vụ liên quan đến quyền năng Kiểm sát viên trong đề ra yêu cầu điều tra.
Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm bắt toàn diện những thông tin, tình tiết của vụ án được phản ánh qua các chứng cứ đã được thu thập để tránh việc yêu cầu điều tra những vấn đề không cần thiết, bỏ sót những chi tiết cần phải điều tra làm rõ đặc biệt là đối với các vụ án phức tạp. Yêu cầu điều tra phải được đề ra ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và khi vụ án được khởi tố, VKS phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, đồng thời phải được bổ sung khi vụ án phát sinh các tình tiết mới mà cần thiết phải được chứng minh làm rõ.
Lãnh đạo Viện kiểm sát quan tâm việc hướng dẫn, chỉ đạo đối với việc ban hành yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên. Tăng cường việc theo dõi, kiểm tra, phê duyệt văn bản yêu cầu điều tra trước khi ban hành để từ đó có những nhắc nhở, rút kinh nghiệm trong đơn vị.
Để một yêu cầu điều tra thật sự mang lại hiệu quả thì việc thực hiện nghiêm túc của Cơ quan điều tra mang tính quyết định. Bởi một yêu cầu điều tra có chất lượng đến đâu mà không được triển khai thực hiện trên thực tế thì cũng không phát huy được giá trị. Do đó cần phải tăng cường sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên về trách nhiệm yêu cầu điểu tra và thực hiện các yêu cầu cầu điều tra. Với quy định Điều tra viên, Cán bộ điều tra được phân công điều tra vụ án phải thực hiện yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên; nếu thấy cần thiết, Điều tra viên, Cán bộ điều tra có thể trao đổi với Kiểm sát viên để làm rõ những nội dung của yêu cầu điều tra. Trường hợp có nội dung yêu cầu điều tra mà Điều tra viên, Cán bộ điều tra không nhất trí, thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát để thống nhất về nội dung yêu cầu điều tra. Trường hợp Cơ quan điều tra không thực hiện yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát hoặc đã tiến hành các hoạt động điều tra nhưng do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát thì Cơ quan điều tra phải nêu rõ lý do trong bản kết luận điều tra5 đã tạo được cơ sở pháp lý ràng buộc mạnh mẽ hơn đối với việc chấp hành các yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên và giải quyết được những vướng mắc trong mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra.
Và cuối cùng là cần phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho Kiểm sát viên về kỹ năng tổng hợp, phân tích đánh giá chứng cứ, xây dựng văn bản để lập bản yêu cầu điều tra đảm bảo khoa học, có chất lượng, phát huy vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
1 .Điều 42, Điều 165 BLTTHS năm 2015.
2. Khoản 1 Điều 11 TTLT số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018.
3. Khoản 1 Điều 11 TTLT số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP.
4. Khoản 2 Điều 15 TTLT số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP.
5. Khoản 2 Điều 11 TTLT số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018.