Chế định “phòng vệ chính đáng” là vấn đề được nhiều người quan tâm và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau nên đã dẫn đến những quyết định khác nhau trong các trường hợp cụ thể. Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về Phòng vệ chính đáng, như sau:
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể ngoài Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự 1985, trong đó tại mục II của Nghị quyết này có đề cập đến chế định phòng vệ chính đáng. Hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm cho xã hội.
b) Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.
c) Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại.
d) Hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
Tương xứng không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải “ngang bằng” hoặc “nhỏ hơn” thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ.
Để xem xét hành vi chống trả có tương xứng hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không, thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ (thí dụ: bảo vệ địa điểm thuộc bí mật quốc gia, bảo vệ tính mạng); mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng; nhân thân của người xâm hại (nam, nữ; tuổi; người xâm hại là côn đồ, lưu manh…); cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xảy ra sự việc (nơi vắng người, nơi đông người, đêm khuya) v.v… Đồng thời cũng cần phải chú ý đến yếu tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ.
Sau khi đã xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng quá đáng và gây thiệt hại rõ ràng quá mức (như: gây thương tích nặng, làm chết người) đối với người có hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không tương xứng và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là tương xứng thì đó là phòng vệ chính đáng.
Mặc dù đã có hướng dẫn, tuy nhiên khi đi vào thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau. Để hiểu rõ hơn vấn đề về chế định phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải hội tụ đủ các yếu tố sau:
Thứ nhất: Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.
Trước hết nạn nhân phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba). Đang có hành vi xâm phạm là hành vi đã bắt đầu và chưa kết thúc. Nếu hành vi chưa bắt đầu, thì mọi hành vi chống trả không được coi là hành vi phòng vệ chính đáng. Trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không được coi là hành vi phòng vệ. Tuy nhiên, trong trường hợp hành vi xâm phạm này đã kết thúc, nhưng lại có tiếp hành vi khác của chính người đó xâm phạm đến lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì cũng không coi là hành vi xâm phạm đã kết thúc và người có hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ.
Thứ hai: Phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.
Cần thiết là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến các lợi của xã hội. Hành vi chống trả phải là biện pháp “cần thiết” để ngăn chặn và đẩy lùi hành vi tấn công. Điều này có nghĩa, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, người phòng vệ trên cơ sở tự đánh giá tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi tấn công và những yếu tố khác để quyết định biện pháp chống trả mà người đó cho là “cần thiết” nhằm ngăn chặn và đẩy lùi hành vi xâm hại đến các khách thể được Luật Hình sự bảo vệ. Khi đánh giá một hành vi chống trả có cần thiết hay không còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác như: mối tương quan lực lượng giữa bên xâm phạm và bên phòng vệ, thời gian, không gian xảy ra sự việc. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.
Vấn đề xác định thế nào là Phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, nhưng nếu hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc đánh giá một hành vi chống trả lại sự xâm hại là phòng vệ chính đáng hay vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là rất phức tạp trong các vụ án cụ thể vì không có một công thức nào đúng cho mọi trường hợp.
Nếu so sánh về khách thể của hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ, tính chất mức độ mãnh liệt của hai hành vi, hậu quả tác hại gây ra mà rõ ràng hành vi phòng vệ chỉ ngang bằng hoặc nhỏ hơn so với hành vi xâm hại thì trong mọi trường hợp hành vi phòng vệ được coi là chính đáng.Trái lại, nếu hành vi tấn công mang tính nhỏ nhặt, sự tấn công không quyết liệt, tương quan lực lượng nghiêng về phía người phòng vệ nhưng hành vi phòng vệ lại mang tính chất rất mạnh mẽ, sự chênh lệch giữa hành vi phòng vệ và hành vi tấn công quá rõ ràng thì hành vi chống trả lại trong trường hợp này không được coi là phòng vệ chính đáng, thậm chí không được coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà bị coi là trường hợp phạm tội thông thường.
Trong thực tiễn các trường hợp có nhiều khó khăn trong việc phân biệt, đánh giá giữa phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là những trường hợp mà hành vi phòng vệ lớn hơn hành vi xâm hại, việc đánh giá gặp rất nhiều khó khăn, còn rất nhiều quan điểm khác nhau. Ví dụ: Trần V K thấy cha mình ông Q bị P xiết cổ và cùng lúc có L, T vây lại đánh. Lúc này K đã chạy vào nhà lấy con dao ra chém P nhằm giải vay cho cha mình đang bị đánh. Ở đây, có hai luồng ý kiến khác nhau: Ý kiến thứ nhất cho rằng, khi thấy cha mình bị đánh thì K có nhiều cách lựa chọn như dùng tay đánh lại những người này hoặc can ngăn những người này không đánh cha mình nữa; Ý kiến thứ hai, cho rằng, hành vi chống trả lại của anh K là cần thiết, bởi vì ông Q đang bị xâm phạm về sức khoẻ, tính mạng do hành vi trái pháp luật của P và L, T (vây đánh), K chỉ có một mình không có hung khí gì trong tay nên Đ đã chạy vào nhà lấy con dao ra chém là “cần thiết” nhằm ngăn cản, đẩy lùi sự tấn công đối với hành vi gây nguy hiểm. Tuy nhiên, hành vi dùng dao chém 03 cái trúng vào người anh P gây thương tích cho anh P là hành vi phòng vệ mang tính chất rất mạnh mẽ, sự chênh lệch giữa hành vi phòng vệ và hành vi tấn công quá rõ ràng thì hành vi chống trả lại trong trường hợp này không được coi là phòng vệ chính đáng mà phải là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Vì vậy, K phải chịu tránh nhiệm hình sự nếu hậu quả của hành vi đó đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự.